Vấn đề giá trị của thực vật có hoa đối với con người là xem xét chúng trị giá
bao nhiêu tiền, hoặc đáng giá bao nhiêu. Vì vậy khi đề cập đến giá trị của thực
vật có hoa người ta đều tính mọi cái ra giá trị tiền. Tuy nhiên khác với các
giá trị khác ngoài tiền ra, thực vật có
hoa có những giá trị vô cùng to lớn mà không thể đánh giá bằng tiền được mà
đúng hơn giá trị của chúng là vô giá. Bởi vì không có thực vật có hoa trên Trái
Đất của chúng ta thì sẽ không bao giờcó sựsống. Khi đề cập tới vấn đề này,
Mc.Neely (1988), Mc.Neely et al. (1990) chia thành hai loại giá trị: giá trị trực
tiếp và giá trị gián tiếp. Trong giá trị trực tiếp thuộc hai phạm vi tiêu thụ mang
tính thương mại trên phạm vi quốc tế và tiêu thụ trong phạm vi địa phương.
Còn giá trị gián tiếp bao gồm những
cái mà con người không thể bán. Những lợi ích đó bao gồm số lượng và chất lượng
nước, bảo vệ đất, tái tạo, giáo dục, nghiên cứu khoa học, điều hòa khí hậu và
cung cấp những phương tiện cho tương lai của xã hội loài người.
1. Giá trị trực tiếp
a. Là nguồn cung cấp lương thực và thực phẩm
Một trong những giá trị của thực vật
có hoa là cung cấp thức ăn cho thế giới. 3000 loài trong số 250.000 cây được coi là
nguồn thức ăn, 75% chất dinh dưỡng cho con người do 7 loài của Lúa, Mỳ, Ngô, Khoai tây,
Mạch, Khoai lang và Sắn, 3 loài đầu cung cấp hơn 50% chất dinh dưỡng cho con người. Một
số khác cung cấp thức ăn cho gia súc. Trong đó có trên 200 loài được thuần hóa để làm thức
ăn, 15 - 20 loài là cây trồng quan trọng Poaceae và Leguminosae là hai họ lớn nhất tiếp
theo là Cruciferae, Rosaceae, Apiaceae, Solanaceae, Lamiaceae. Một số họ có ý nghĩa
khác như Araceae, Chenopodiaceae, Cucurbitaceae và Compositae.
Ở mức độ địa phương tài nguyên thực
vật đã cung cấp nguồn dinh dưỡng cần thiết. Ở Pêru qúa 139 loài đã được tiêu thụ,
trong đó 120 loài là hoang dại, 19 có nguồn gốc từ hoang dại và từ trồng. Ngoài các loài khác có
thể ăn được, hàng chục loài cây lương thực, thực phẩm mới phát hiện.
b. Nguồn cung cấp gỗ
Gỗ là một trong những hàng hóa
quan trọng trên thị trường thế giới chiếm tỷ lệ lớn trong các mặt hàng xuất khẩu. Năm 1959,
tổng cộng giá trị toàn cầu của gỗ xuất khẩu là 6 tỷUSD phần lớn lấy từ vùng ôn đới. Những
nước xuất khẩu gỗ lớn là Mỹ, Nga, Canada xuất gỗ tròn, gỗ xẻ; Mỹ, Nga, Anh và Phần lan xuất
gỗ ép. Các nước nhiệt đới xuất khẩu gỗn hiều là Malaixia, Papua-Niu Ghinê, Gabon
xuất gỗ tròn, Malaixia và Inđônêxia xuất gỗ xẻvà gỗ ép.
Các nước đang phát triển việc thu
nhập từ gỗ chiếm tỷ lệ thấp. Nghiên cứu ở Amazôn cho thấy rằng loài cây gỗ rừng mưa
trong khu nghiên cứu được dùng ngoài củi đun (Prance et al.,1987).
c. Nguồn cung cấp song mây
Sau gỗ, song mây là nguồn tài
nguyên quan trọng thứ 2 để xuất khẩu. Hầu hết là các loài mọc hoang ở Nam và Đông Nam á. Các
nước có công nghiệp song mây lớn là Phillipin, Trung Quốc, ấn Độ, Srilanca và
Thái Lan. Trung tâm đa dạng của song mây là bán đảo Malaixia với 104 loài trong đó
38% là đặc hữu.
d. Nguồn cung cấp chất đốt
Chất đốt không phải là nhân tố quan
trọng đối với phá rừng mà hầu hết chất đốt lấy từ savan, rú bụi, đất nông nghiệp
(Eckholm và cs., 1984; Myer, 1980). Tuy nhiên về củi đốt đang tăng nhanh vì dân số đang
tăng. Giá trị tiêu thụ chất đốt cũng có thể tính số củi đốt dùng để sưởi và đun nấu được lấy từ rừng,
trảng cây bụi.
e. Nguồn cung cấp thuốc chữa bệnh
Theo Farnswarth (1988) có tới 80%
người dân trên thế giới sử dụng thuốc truyền thống. Khoảng 119 chất hóa học tinh khiết
lấy từ 90 loài thực vật có hoa khác nhau được dùng làm thuốc trên toàn thế giới. Một số trong
đó cung cấp cơ sở cho 24 - 25% tất cả vị thuốc sản xuất trong nhà máy ở Mỹ trong 20 năm
qua. Trên 40% đơn thuốc ở Mỹ dựa vào nguồn thiên nhiên.
Ở phạm vi địa phương cây thuốc được
sử dụng rất rộng rãi. Người ta đã thống kê trên 21.000 tên cây đã được thông báo là làm
thuốc trên phạm vi toàn thế giới trong đó khoảng 5.000 loài thực vật có hoa đã được nghiên cứu
toàn diện như là nguồn tiềm năng của thuốc mới. Trên 80% dân số các nước đang phát triển
sống dựa chủ yếu vào các cây thuốc. Cây thuốc phiện thu hoạch từ hoang dại là chính.
Ví dụ, ở Đức 2/3 loài được dùng làm thuốc lấy từ hoang dại. Một số cây thuốc lớn được trồng
như Gentiana lutea, Valeriana mexicana, Echinala arnica, chỉ mới bắt đầu 20 năm nay.
Một số cây có giá trị quan trọng nhất
trong buôn bán là Papaver spp., Cinchona spp.,Chamomilla recutita, Mentha
piperata (Schumacher, 1991). Digitalis purpurea cho digitalin và D. laurata cho digitoxin là hai
glucosit (chất kích thích) rất quan trọng nhờ nó mà hàng triệu người sống sót. Quinin, một
alcaloit từ vỏ Cinchona lần đầu tiên vào năm 1820 được dùng thành công trong chữa sốt rét. Chất
diosgenin lấy từ cây Dioscorea deltoidea mọc ở chânHimalaya, thuộc Bắc ấn.
f. Nguồn cung cấp cây cảnh
Trong cây cảnh có nhiều dạng khác
nhau trước hết là những cây lấy hoa. Nổi tiếng phải kể đến hoa Lili. Nó đã được trồng
ở Trung Quốc với mục đích làm cảnh và làm thuốc đã 2000 năm nay. Trong thời kỳ Hy Lạp, hoa
Hồng, hoa Lili, hoa Tím, Anemone đã được trồng ở châu Âu, ở Anh có 3000 loài được trồng
phổ biến và nhiều thứ khác nhau. Tổng xuất khẩu thế giới về hoa Cúc, lá Cúc và cây dáng là
2.488 triệu USD trong năm 1985. Giá trị buôn bán thế giới về hoa và cây từ 1981-1985 trung
bình nhập hoa cắt 1238,79 triệu USD và nhập cây sống 915,76 triệu USD, nhiều nhất là Đức,
sau đó là Mỹ, Pháp, Anh, Thụy Sĩ và Thụy Điển. Xuất khẩu hoa cắt 1101,79 triệu USD
nhiều nhất là Hà Lan, tiếp theo là Côlômbia, Ixraen và ý và xuất cây sống 8882,15 triệu USD
nhiều nhất là Hà Lan, Đan Mạch và Đức. Bên cạnh những hoa truyền thống đó, các loại
Phong lan là nguồn cây cảnh có giá trị lớn được mọi ngươì ưa thích vì thế nhiều loài đang bị khai
thác kiệt quệ. Đến nay có trên 5.000 loài lan được CITES ghi nhận cấm buôn bán trên phạm
vi toàn thế giới. Khoảng 90% Phong lan buôn bán là nuôi nhân tạo. Nước buôn bán lớn nhất
là Thái Lan (Dendrobium). Hai chi Paphiopedilum ở châu á và Phramipedium đang bị nguy cấp cần
được bảo vệ. Nhu cầu cây cảnh vùng khô hạn nổi tiếng là các loại xương rồng làm
cảnh, hàng năm có khoảng 14 triệu cây được đem bán trên phạm vi toàn thế giới. Nơi nuôi trồng
nhiều nhất là ở Hà Lan đã sản xuất 18 triệu cây/năm, còn ở Mỹ buôn bán 10-15 triệu cây.
Mêxicô là một trong những trung tâm chính của sự đa dạng của họ này xuất khẩu khoảng
50.000 chồi hàng năm. Các cây mọng nước khác gồm các loài Euphorbia, Pachypodium cũng
được buôn bán trên thị trường quốc tế. Một trong những nước chính là Madagasca hàng năm
xuất khẩu khoảng 135000 chồi tất cả là từ hoang dại.
Cuối cùng những loài có căn hành
cũng đã được sử dụng làm cảnh từ xa xưa như Narcissus có 40 loài ởTây Ban Nha và Bồ Đào
Nha. Năm 1987, Anh xuất 87 triệu dò Narcissus khoảng 4 triệu bảng Anh. Một sốtrong đó
N. asturiensis và N. cyclamineus được xuất sang Hà Lan để tái xuất cho toàn thếgiới. Nguồn
chính dạng hoang dại là ThổNhĩKỳ.
2. Giá trị gián tiếp của đa dạng sinh vật
a. Sản phẩm của hệ sinh thái - điểm khởi đầu của chuỗi thức ăn của hệ sinh thái
Khả năng quang hợp của cây nói
chung và cây có hoa nói riêng đã lấy năng lượng mặt trời để tạo các sản phẩm cho loài
người. Đó cũng là điểm xuất phát của một chuỗi thức ăn không thểtính được và từ đó dẫn đến
những sản phẩm của động vật, là nguồn thức ăn cho con người. Do đó việc phá thảm thực vật
có hoa bằng các cách khác nhau như dẫm đạp quá mức, khai thác quá mức về gỗ, đốt rừng
quá nhiều sẽ hủy diệt khả năng sử dụng ánh sáng mặt trời và cuối cùng làm mất đi sựsản xuất
sinh khối của thực vật và mất đi cả xã hội động vật, kể cả con người (Likens et al., 1977).
b. Giá trị về môi trường
- Bảo vệ nguồn nước
Cây có hoa tạo ra các hệ sinh thái
chính trên Trái Đất, có vai trò quan trong trong việc bảo vệ nguồn nước cho các sinh vật
trên Trái Đất tồn tại, hạn chế lũ lụt và hạn hán. Tán lá, thân cây, lá khô làm giảm tốc độ hạt
nước rơi xuống đất, hạn chế sự tác động trực tiếp lên bề mặt đất tức là để ngăn cản dòng chảy.
Rễcây cùng với hệ động vật đất làm cho đất tơi xốp, tăng độ thông khí, tăng độ thấm của
nước cũng góp phần làm giảm dòng chảy, phân bố lượng nước từ ngày này qua ngày khác.
Theo Daniel và Kulasingham (1974), rừng trồng Cao su, Cọ dừa ở Malayxia chỉ giữ được một lượng
nước nhỏ trong lúc đó rừng tự nhiên giữ nước suốt trong mùa khô lớn hơn hai lần so
với rừng trồng. Những hiện tượng lụt đột ngột và khủng khiếp ở Bănglađet, Philippin, Thái
Lan và gần đây ở Việt Nam là kết quả của việc chặt phá rừng.
- Bảo vệ đất đai
Thảm cây có hoa nói riêng và thảm
thực vật nói chung làm nhiệm vụ bảo vệ và giữ đất, đến lượt nó lại là cơ sở cho xã hội
sinh vật phát triển. Rễ cây, thảm mục trên mặt đất cũng tham gia vào việc chống xói mòn đất.
- Điều hòa không khí
Cây có vai trò quan trọng hạn chế tốc
độ gió, làm giảm độ nóng của các tòa nhà trong mùa nóng và hạn chế sự mất nhiệt
trong mùa lạnh. Ở mức độ vùng, sự bốc hơi của cây vào không khí để tạo ra mưa. Mất rừng
sẽ làm giảm lượng mưa hàng năm gây ra hiện tượng savan hay sa mạc hóa. Ở mức độ toàn cầu,
cây đảm bảo cho chu trình CO2. Mất rừng làm cho CO2 tăng lên cao và dẫn đến tăng nhiệt
độ của khí quyển. Cây cũng là nguồn tái tạo O2 mà các loài động vật và người rất cần đến để tồn
tại
Làm sạch môi trường
Giá trị làm sạch môi trường được
thể hiện bằng các loài chỉ thị cho môi trường đã giúp cho việc bảo vệ môi trường trong sạch.
Nhiều loài thực vật có khả năng hút các kim loại nặng làm sạch môi trường. Một số cây sống
ở nước như Bèo tây, Bèo cái... cũng có khả năng hấp thụ kim loại độc, các hóa chất độc.
c. Mối quan hệgiữa các loài
Nhiều loài cây rất cần cho con
người. Nếu các loài đó bị mất sẽ ảnh hưởng tới con người. Một ví dụ các cây trồng, cần côn
trùng, chim để thụ phấn, và đến lượt mình côn trùng lại cần cây để lấy thức ăn từ mật hoa hay
hoa quả và thậm chí cả những ký sinh trùng và sâu bệnh hại cây. Nhiều loài cây phụ thuộc vào
các loài động vật ăn quả như chim, dơi để phát tán hạt giúp chúng và ngược lại các loài động
vật lại cần hoa quả và hạt từ các loài cây.
Một ví dụ điển hình các loài cây
cung cấp cho đất chất dinh dưỡng nhờ các vi khuẩn, nấm phá hủy các xác thực vật để lấy
năng lượng và thải các muối khoáng vào làm cho đất tốt lên, là nguồn thức ăn cho cây. Các sợi
nấm làm tăng khả năng hấp thụ của rễ cây đối với nước và muối khóang còn một số vi khuẩn
hút nitơ không khí giúp cho cây hấp thụ, cuối cùng đến lượt cây lại giành một phần thức
ăn cho vi khuẩn đó tồn tại. Cây có hoa là những nhà máy hóa chất đặc biệt và một vài hóa chất
của chúng được cách mạng hóa một số quá trình. Ví dụ như Steroit từ củ ở Mexico đã tạo viên
thuốc để tạo ra các nhân tố kiểm tra sinh đẻ hàng loạt
d. Giá trị tiêu khiển, giải trí
Sự đa dạng của các loài thực vật
nhất là thực vật có hoa đã tạo ra những cảnh quan khác nhau như vừa có rừng rậm, rừng
thưa, rừng rụng lá, rừng khô, các loại trảng khác nhau rất đa dạng và do đó đã tạo nên những cảnh
quan hấp dẫn, những hình thù kỳ dị và đẹp mắt hàng năm đã thu hút hàng triệu người
đi tham quan du lịch sinh thái. Khi điều kiện sống càng cao thì nhu cầu tham quan du lịch
sinh thái càng đòi hỏi, vì vậy các cảnh quan thiên nhiên là hết sức quan trọng. Ví dụ80% người
Canađa, một năm sử dụng 800 triệu đô la để tham gia các đoàn tham quan (Fillon và cs.,
1985); ởMỹ100 triệu người già và với con số trẻ con tương tự đã đi tham quan mỗi năm tiêu 4 tỷ
đô la (Shaw and Mangun, 1984). Nhưvậy, việc du lịch sinh thái đã tăng lên một cách
chưa từng thấy. Đó là giá trị của đa dạng cây có hoa và những cảnh quan do chúng tạo ra.
e. Giá trịkhoa học và đào tạo
Nền công nghiệp ngày càng phát
triển, diện tích rừng ngày càng bị phá hủy nhất là các rừng nguyên sinh mà nhiều nơi,
nhiều nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu và nghiên cứu cũng không còn. Những khu bảo tồn mà
hiện nay các quốc gia đang bảo vệ là một tài sản không những quý về nguồn tài nguyên phục
vụ trước mắt, về nguồn gen đểtạo giống cho các thế hệ mai sau, là nơi để bảo vệ môi trường
cực kỳ có hiệu quả và đa năng mà chúng còn là địa bàn để phục vụ cho nghiên cứu khoa học
để tìm hiểu thiên nhiên, tìm những bí ẩn trong đó đến nay con người vẫn chưa biết được.
Các nhà văn, nhà thơ, nhà nhiếp ảnh, nhà quay phim đã nhờ vào rừng núi và tính đa dạng
các sinh vật của chúng để sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật bất hủ phục vụ cho nhu cầu
cuộc sống của con người ngày càng nâng cao. Nhiều bộ phim, nhiều cuốn sách, nhiều
chương trình tivi đã dựa trên các mặt khác nhau của đa dang sinh vật đã ra đời.
3. Giá trị lựa chọn cho tương lai
Hiện nay người ta đang chuẩn bị tìm
những loài để phục vụ cho chữa bệnh hiểm nghèo như ung thư, HIV. Hiện nay, các
loài thực vật nhất là cây có hoa có chứa nhiều thành phần hóa học mà cho đến nay chưa được
phát hiện. Việc nghiên cứu và ứng dụng các thành phần hóa học rất có triển vọng trong
tương lai. Thuốc chống sốt rét được điều chế từ một số cây trong các họSimaroubaceae,
Celastraceae, Saxifragaceae, Meliaceae. Nhiều loài có những sản phẩm y học độc đáo, có hoạt
tính sinh học cao được phát hiện ngày càng nhiều.
Qua phân tích các cây ở Vườn quốc
gia Cúc Phương, 27 loại metanol được chiết từ 22 loài cây; 24 loài có hoạt tính chống
sốt rét, 4 trong số đó được chứng minh chống cả Plasmodium falciparum D6
(Chloroquine - sensitive) và W2 (Chloromine resistant) với giá trị IC70 dưới 10 ig/ml trong mọi trường
hợp. Ngoài ra, chúng còn loại bỏ một số các tế bào độc.
Khi thí nghiệm chống 14 dòng tế bào
u ởngười, các chất chiết bằng metanol từ lá và vỏ Ficus fistulosa thể hiện hoạt tính chống
sốt rét có giá trị. 13 chất chiết lấy từ 12 loài đã được thử khả năng chống HIV. Chất chiết từ Ficus
glandulifera, Bischofia javanica, Shorea chinensis, Dracontomelum duperreanum có hoạt
tính sinh học mạnh. Qua phân tích các chất chiết của thực vật từ nguyên liệu Việt Nam
và 350 chất chiết từ các nơi khác trên thế giới đã cho thấy các chất có hoạt tính sinh học
cao (17%).
Rõ ràng, trong cây có hoa còn chứa
nhiều điều bí ẩn mà chưa được khám phá. Có thể nói đây là nguồn tài nguyên tiềm ẩn,
cho đến nay, ít được biết đến. Do đó, chúng ta phải có trách nhiệm bảo vệ cho các thế hệ mai sau.
Theo GT Thực Vật có Hoa
Nguyễn Nghĩa Thìn
Theo GT Thực Vật có Hoa
Nguyễn Nghĩa Thìn
2 nhận xét:
Chào bạn, trang mới của bạn đẹp quá! Chúc bạn sẽ luôn chia sẻ thật nhiều những kiến thức bổ ích!
Cảm ơn Lê Mai đã ghé thăm.
Đăng nhận xét