Cơ thể thực vật sử dụng P dưới dạng
muối của acid phosphoric. Bản chất của sự biến đổi các hợp chất P trong cơ thể
là các gốc acid tham gia vào thành phần một chất hữu cơ nhất định bằng quá
trình phosphoryl hóa và sau đó truyền cho các chất khác (bằng cách phosphoryl
hoá). Bằng con đường đó, cơ thể đã tạo thành tất cả các chất chứa P cần thiết
cho sự sống. Các hợp chất P gặp trong cơ thể thực vật khác nhau về bản chất hoá
học cũng như về chức năng sinh lí. Có thể chia làm 5 nhóm các hợp chất P như sau:
- Nhóm nucleotid (bao gồm AMP,
ADP, ATP). Các nucleotid này đóng vai trò rất quan trọng trong các quá trình cố
định, dự trữ và chuyển hoá năng lượng, đồng thời chúng tham gia vào tất cả quá
trình biến đổi và sinh tổng hợp các carbohydrate, lipid, protein, cũng như quá
trình trao đổi acid nucleic trong cơ thể thực vật.
- Hệ thống coenzyme như CoI (NAD), CoII (NADP), FAD, FMN. Đây là
các nhóm hoại động của các enzyme oxi hóa khử, đóng vai trò đặc biệt quan trọng
trong các phản ứng oxi hóa khử trong cây, đặc biệt là quá trình quang hợp, hô hấp
quá trình đồng hóa nitơ.
- Các acid nucleic và các
nucleoprotein. P tham gia trong thành phần của AND, ARN có vai trò trong quá
trình di truyền của cây, liên quan đến
quá trình tổng hợp protein, các quá trình sinh trưởng và phát triển của thực vật.
- Các polyphostphate. Chúng có thể
phosphoryl hoá ARN và có thể coi chúng là các hợp chất cao năng giống như ATP.
Thực vật cần các polyphosphate này để hoạt hoá ARN trong quá trình sinh tổng hợp
protein và acid nucleic.
-
Các estephosphate của các loại đường
(như hexose P, triose P, pentose P...).
Đây là các dạng đường hoạt hóa, đóng
vai trò quan trọng trong trao đổi carbohydrate.
Các phospholipid là hợp chất chứa P rất quan trọng cấu tạo nên
hệ thống màng sinh học như màng sinh chất, màng không bào, màng các bào quan...
Đây là các màng có chức năng bao bọc, quyết định tính thấm, trao đổi chất và
năng lượng. Chức năng của màng gắn liền với hàm lượng và thành phần của
phospholipid trong chúng.
Ngoài ra P còn có vai trò
- Liên kết với kim loại tạo nên một
hệ thống đệm đảm bảo độ pH trong tế bào chỉ xê dịch trong một phạm vi nhất định
(6-8). KH2PO4 và K2HPO4 trong môi
trường acid sẽ cho ion OH-, còn trong môi trường kiềm tạo ra ion H+ làm ổn định
độ pH:
HPO42- + H2O -->
H2PO4- + OH-
H2PO4- --> HPO42- + H+
- Đối với quang hợp P ảnh hưởng
đến khâu tổng hợp sắc tố, quá trình quang phosphoryl hóa, quá trình tạo
chất hữu cơ trong pha tối của quang hợp.
- P có ảnh hưởng sâu sắc đến quá
trình trao đổi nước và khả năng chống chịu của cây.
Nhiều tài liệu cho rằng P là dạng
phân có tác dụng rút ngắn thời gian sinh trưởng, làm cây ra hoa, kết quả sớm
hơn.
Như vậy, P sau khi xâm nhập vào
thực vật dưới dạng các hợp chất vô cơ theo con đường đồng hoá sơ cấp P bởi hệ rễ,
đã tham gia vào nhiều hợp chất hữu cơ quan trọng và tham gia vào hầu hết quá
trình trao đổi chất của cây. Do vậy có thể nói rằng P đóng vai trò quyết định sự
biến đổi vật chất và năng lượng, mà mối liên quan tương hỗ của các biến đổi đó
quy định chiều hướng, cường độ các quá trình sinh trưởng phát triển của cơ thể thực
vật và cuối cùng là năng suất của chúng.
Vì vai trò của P quan trọng như vậy
nên khi thiếu P cây có những biểu hiện rõ rệt về hình thái bên ngoài, cũng như
về năng suất thu hoạch.
Đối với những cây họ lúa, thiếu P
lá mềm yếu, sự sinh trưởng của rễ và toàn cây, sự đẻ nhánh, phân chia cành kém.
Lá cây có màu xanh đậm, do sự thay đổi tỉ lệ chlorophyll a và b. Ở những lá già
thì đầu mút của nó màu đỏ, thân cũng có màu đỏ. Hàm lượng protein trong cây giảm,
trong khi đó hàm lượng N hoà lan lại lăng. Đối với cây ăn quả, khi thiếu P thì
tỉ lệ đậu quả kém, quả chín chậm và trong quả có hàm lượng acid cao.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét