I. Đặc điểm giải phẫu
Trong tuyến tuỵ có một số tế bào
hợp thành đám sáng nổi không rõ, không có ống tiết. Những đám tế bào ấy, hợp thành đảo langerhan gọi là tuyến đảo
tuỵ. Đảo tuỵ có kích thước từ 20 – 30 μ chiếm khoảng 1-3 % tổng khối lượng tuyến
tuỵ. Tuyến đảo tuỵ được cung cấp nhiều mạch máu. Nó bao gồm nhiều loại tế bào.
Trong đó có hai loại tế bào a và b tiết hormone thần kinh chi phối tuyến đảo tuỵ
bao gồm cả thần kinh mê tẩu và giao cảm.
II. Chức năng sinh lý
Tuyến đảo tuỵ tiết 3 hormon đó là
insulin, glucagon và lipocain.
1. Insulin.
a. Cấu trúc của insulin
Cấu tạo hoá học của insulin được
xác định năm 1955 nhờ công trình của Sanger.F. Nó gồm 51 amino acid xếp thành 2
mạch popypeptid A và B nối với nhau bằng 2 cầu disulphid và 1 cầu S-S nữa nối
các amino acid thứ 6 và thứ 11 của mạch A. Mạch A có 21 amino acid, mạch B có
30 amino acid. Trọng lượng phân tử 6.000.
Trong số insulin của các loài chỉ có insulin của lợn
là gần giống insulin của người nhất. Chúng chỉ khác nhau ở vị trí amino acid tận
cùng (số 30) của mạch B. Ở lợn amino acid đó là alanine ở người là threonine.
Insulin của cừu, ngựa, bò khác insulin của lợn ở 3 mạch amino acid số 8, 9, 10
nằm ở mạch A.
Insulin do tế bào β của đảo tuỵ tiết ra. Nồng độ insulin
trong máu rất thấp. Bằng các phương pháp sinh vật học như gây hạ đường huyết ở
chuột, hoặc dựa vào sự tiêu hao glucose trong ống nghiệm, người ta thu được ở
người lượng insulin là 20 –150 micrô đơn vị trong 1ml máu.
Hoạt tính của hormon phụ thuộc
vào vị trí đặc biệt của các amino acid chứa trong đó. Gốc disulphid có ý nghĩa
quan trọng. Người ta thấy rằng phân tử insulin chứa nhiều trong nhóm amin tự do
và nhóm này quyết định hoạt tính sinh học của hormon. Insulin dễ bị men tiêu
hoá protein phân huỷ nên nó chỉ có hiệu lực khi tiêm.
b. Tác dụng sinh lý của insulin
Tác dụng sinh lý quan trọng nhất gây nên hạ
đường huyết là: (1) Thúc đẩy sự tổng hợp glucose thành glycogen ở gan. (2) Ở
gan và ở cơ, nó xúc tiến sự tiêu thụ glucose và đưa nhanh glucose vào chu trình
Krebs hoặc chuyển thành acid béo để tăng tổng hợp lipid. (3)Ngăn trở sự phân giải
trở lại glycogen thành glucose ở gan và ngăn trở sự huy động và chuyển hoá
protein thành glucose. Trong 3 cách trên thì cách thứ nhất là mạnh nhất. Ở cách
này insulin kích thích sự vận chuyển glucose qua màng tế bào bằng cách hoạt hoá
enzyme hexokinase, enzyme này xúc tác cho sự phôspho-rin hoá glucose, để biến nó thành glucose 6-phosphatate
(G-6-P) rồi thành glucose - 1- phôtphat và cuối cùng biến thành glycogen dự trữ.
Ở cách thứ hai: khi được phốspho rin hoá thành G – 6 – P chất này ở ngã ba đường,
có thể đi ngược để tổng hợp nên glycogen, hoặc tiếp tục con đường phân giải yếm
khí qua một số khâu trung gian thành acid pyruvic, để rồi được đưa vào chu
trình Krebs, đốt cháy cho năng lượng. Cũng có thể qua cầu acetyl-coA, rồi ngược con đường β – oxy hoá tạo thành axit
béo mạch dài, để rồi kết hợp với glycerol tạo thành mỡ. Ở cách thứ 3, insulin đối
kháng với tác dụng của adrenaline thể hiện ở khía cạnh là hormon ức chế enzyme
phosphorylase ngăn cản sự phân giải glycogen thành glucose – 6 – P và ức chế hoạt
tính của enzyme hexokinase, không cho G – 6 – P biết thành glucose.
Insulin cũng đối kháng với
glycocorticoit của miền vỏ thượng thận, làm ngăn cản sự huy động phân giải
protein để chuyển thành glucose.
Vai trò của insulin quan trọng
như vậy, nên nhược năng tuyến đảo tuỵ, insulin tiết ít, glucose từ thức ăn đưa
vào, không được chuyển đầy đủ
thành glucogen dự trữ vượt ngưỡng chất tiết của nó và qua đường thận phát sinh
bệnh đái đường (diabete) làm cơ thể thiếu
đường. Để bù đắp lại protein và lipid bị huy động (dưới
ảnh hưởng của glucocorticoid và một số hormone khác) làm sản sinh nhiều
ceton. Thể này nếu bình thường sẽ kết hợp với axit oxalo-axetic để tạo thành
citric acid đi vào chu trinh Krebs đốt cháy cho năng lượng. Nhưng do glucose mất
nhiều, oxalo-axetic acid hình thành ít. Thể ceton tích tụ lại gây chứng toan
huyết, rồi toan niệu. Khi mắc bệnh đường niệu, nếu tiêm insulin sẽ khỏi, nhưng
không nên tiêm quá nhiều, sẽ làm giảm đường
huyết đột ngột, cũng gây nguy hiểm cho
cơ thể.
Nồng độ đường huyết trung bình là
80 –120 mg %, ở người 100 mg%. Khi giảm 1 /4 lượng đó cơ thể sẽ cảm thấy mệt mỏi,
có cảm giác đói lả, đói run, giảm 1 /2 đường huyết sẽ gây co giật và chết trong
cơn hôn mê. Insulin còn gây tích mỡ, qua cơ chế như đã trình bày ở trên. Dưới
tác dụng của hormone này, sẽ tạo ra những axit béo có chứa nhiều axit béo không
bão hoà nên mỡ thường nhão, cơ thể béo bệu, không bình thường. Insulin ở một chừng mực nào đó làm tăng tổng
hợp protein, nó có thể xúc tác cho sự vận chuyển amino acid qua màng tế bào và
xúc tác cho sự tổng hợp protein ở tế bào.
2. Glucagon
Hormon glucagon có tác dụng làm tăng đường huyết (tương tự tác dụng của
adrenaline và ngược với insulin). Cơ chế tác
động thông qua việc xúc tác sự phân giải glycogen thành glucose, nhưng
nó chỉ hoạt hoá enzyme phosphorylase ở gan mà không hoạt hoá phosphorylase ở
cơ, cho nên tiêm glucogon chỉ làm tăng đường huyết mà không làm tăng acid
lactic huyết.
Glucagon cũng có tác dụng lên
trao đổi mỡ làm hạ mỡ huyết và ức chế gan trong sự tổng hợp axit béo và
cholesterol. Glucagon chỉ tiêm vào tĩnh mạch mới có tác dụng, tiêm dưới da
không hiệu quả.
3. Lipocain
Nghiên cứu những năm gần đây cho
thấy trên lâm sàng có hai loại bệnh đường niệu. Một loại bệnh đường niệu do thiếu
insulin đơn thuần, còn loại khác tương đối phức tạp, ngoài triệu chứng đường niệu
còn kèm theo triệu chứng tích mỡ ở gan (bệnh gan nhiễm mỡ). Nguyên nhân là do
thiếu lipocain. Vì tác dụng sinh lý của lipocain, một mặt giống insulin là làm
giảm đường huyết (nhưng tác dụng yếu hơn nhiều), mặt khác nó kích thích sự ôxy
hoá axit béo ở gan, thúc đẩy sự trao đổi phospho-lipid.
Ngoài ba hormone kể trên, ngày nay người ta
còn tìm thấy đảo tuỵ còn tiết ra những hormone khác như calicrein làm giãm mạch,
vagotonin làm giảm đường huyết nhưng
không hoàn toàn giống insulin.
III. Điều hoà hoạt động tuyến đảo tuỵ
1. Điều hoà sự phân tiết
insulin
Cơ chế kiểm soát sự phân tiết
hormon này chủ yếu thông qua sự thay đổi nồng
độ đường huyết, thiết lập nên cơ chế thần kinh thể dịch. Khi nồng độ
đưòng huyết tăng, kích thích vào các thụ quan hoá học trong thành mạch máu, luồng
xung động thần kinh truyền về dưới vùng đồi. Từ đây luồng xung động đi xuống
hành tuỷ, rồi ra theo dây thần kinh mê tẩu, có nhánh đi đến đảo tuỵ, gây bài tiết
insulin. Khi nồng độ đường huyết giảm cơ chế sẽ ngược lại làm giảm tiết
insulin. Sự tiết insulin cũng chịu ảnh hưởng của vỏ não. Người ta đã thành lập
được phản xạ có điều kiện giảm đường huyết cụ thể là nhiều lần kết hợp kích
thích âm thanh với tiêm insulin cho chó. Sau đó cho âm thanh kết hợp với tiêm
nước sinh lý cũng thấy lượng đường huyết giảm, tuy nhiên không phải lúc nào
cũng thành công.
2. Điều hoà sự phân tiết
glucagon
Sự phân tiết glucagon cũng chịu ảnh hưỏng trực tiếp của sự thay đổi nồng
độ đường huyết. Nhưng ngược với insulin, nghĩa là khi nồng độ đường huyết giảm
thì làm tăng tiết glucagon và ngược lại.
3. Điều hoà sự phân tiết
lipocain
Sự phân tiết lipocain cũng chịu ảnh
hưởng của sự thay đổi nồng độ đường huyết, cơ chế tương tự như insulin nhưng
không điển hình lắm.
4. Sự liên quan của một số tuyến nội tiết trong điều hoà lượng đường
huyết
Khi lượng đường huyết giảm thì trước hết miền tuỷ thuyến
thượng thận tăng tiết adrenaline, rồi đến tuyến đảo tuỵ tiết glucagon để xúc tiết
sự phân giải glycogen ở gan thành glucose để duy trì lại đường huyết ở ngưỡng
sinh lý. Khi adrenaline tiết đạt đến mức độ nhất định thì nó tạo thành một mối
liên hệ ngược dương tính kích thích vùng dưới đồi tiết CRF, yếu tố giải phóng
này kích thích tuyến yên tiết ACTH. Hormon này đến kích thích vỏ thượng thận tiết
glucocorticoid. Dưới tác dụng của glucocorticoid thì lipid từ các mô bào được
huy động phân giải thành glucose để tăng đường huyết nhằm hỗ trợ cho lượng đường
huyết bị tiêu dùng mà sự phân giải glycogen thành glucose dưới tác dụng của
adrenaline không đủ sức đáp ứng. Khi cơ thể hoạt động mạnh hệ thống vùng dưới
tuyến yên - tuyến giáp cũng đi vào hoạt động (TRF---TSH--- Thyroxine) để thyroxine thúc đẩy tạo nhiệt tạo năng lượng cho cơ thể hoạt động bằng cách xúc tiến phân giải glycogen
thành glucose và oxy hoá glucose cho năng lượng.
Ngược lại khi lượng đường huyết tăng (sau khi ăn đường vào nhiều chẳng hạn)
cũng thông qua vùng dưới đồi - đảo tuỵ làm tăng tiết insulin. Hormon này xúc
tác cho sự tổng hợp glucose thừa đó thành glycogen dự trữ ở gan.
DOWNLOAD:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét