1. Ý nghĩa của sự sinh sản
a. Ý nghĩa sinh học của sinh sản
Một trong những thuộc tính đặc trưng nhất của
các hệ thống sống là khả năng sinh sản. Để đảm bảo sự tồn tại của loài, mọi
sinh vật đều cố gắng tạo những cá thể mới giống mình, để thay thế các cá thể chết
do tai nạn, bệnh tật, già cỗi hoặc do bị động vật khác ăn thịt. Tuy quá trình
sinh sản khác nhau ở những loài khác nhau nhưng nói chung chỉ gồm hai dạng chủ
yếu. Sinh sản hữu tính và sinh sản vô tính.
+ Trong sinh sản vô tính, chỉ có
1 cá thể tham gia hoặc bằng cách phân đôi, hoặc bằng cách nẩy chồi, để tạo ra
hai hoặc nhiều cá thể mới. Ngay đối với động vật cao như người, vẫn có thể sinh
sản vô tính, chẳng hạn khi tế bào trứng đã thụ tinh, phân đôi để thành “trẻ sinh
đôi cùng trứng”.
+ Trong sinh sản hữu tính, có hai
cá thể tham gia, mỗi cá thể sản xuất một loại tế bào biệt hoá, gọi là giao tử
(tinh trùng ở đực, trứng ở cái).
Trứng thường là tế bào lớn, chứa
nhiều chất dự trữ, nhằm nuôi dưỡng cơ thể trong giai đoạn đầu, khi chưa thể nhận
được thức ăn ngoài. Tinh trùng thường là tế bào bé, nghèo chất dự trữ, nhưng lại
có đuôi dài hình roi, giúp tinh trùng bơi tới gần trứng. Tinh trùng đột nhập
vào trong trứng nhờ hiện tượng thụ tinh. Trứng đã thụ tinh thành hợp tử, về sau
phân chia nhiều lần liên tiếp, thành một cơ thể mới.
Sinh sản hữu tính ưu điểm hơn
sinh sản vô tính, nhờ đã thực hiện một sự kết hợp và chọn lựa giữa các tính trạng
di truyền của bố và mẹ, do đó vừa giống bố mẹ, vừa thừa hướng
được tính trạng trội nhất của bố
hoặc mẹ. Sinh sản hữu tính về mặt này làm quá trình tiến hoá diễn ra nhanh hơn,
và có hiệu quả hơn, so với sinh sản vô
tính.
b. Ý nghĩa xã hội của sinh sản
+ Sinh sản đối với con người: Mặc
dù sinh sản cũng là bản năng và cần thiết cho sự phát triển của xã hội loài người,
song nó chỉ có ý nghĩa tích cực khi tốc độ gia tăng dân số và tỷ lệ sinh đẻ phù
hợp với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia và trên toàn cầu.
Tình hình gia tăng dân số quá nhanh, tỉ
lệ sinh đẻ quá cao trong thế kỷ 20 này của xã hội loài người đã đưa thế giới tới
tình trạng “Bùng nổ về dân số" và dẫn đến nguy cơ mất cân bằng với sự phát
triển kinh tế, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, huỷ diệt môi trường sống ...
Những số liệu thống kê cho thấy: Ở
đầu thế kỷ 17 loài người mới chỉ có 500 triệu, sang đầu thế kỷ 19 tăng lên 1 tỷ,
sang năm 1930 tăng lên 2 tỷ (sau khoảng
100 năm ), năm 1975 đã là 4 tỷ (chỉ sau khoảng 50 năm). Như vậy, sự tăng gấp
đôi lần đầu là 200 năm, lần sau 100 năm, nhưng lần tiếp theo chỉ còn 50 năm.
Riêng ở Việt nam ta, tình hình càng
đáng lo ngại hơn. Năm 1921 số dân Việt nam là khoảng 15.584.000, 39 năm sau (1960 ) đã tăng gần gấp
đôi, thành khoảng 30.172.000; 20 năm sau (1980) lại tăng gần gấp đôi lần nữa,
thành 53.853.620 và hiện nay, dân số Việt nam đã đạt con số 80,7 triệu người. Tốc
độ gia tăng dân số và tỷ lệ sinh đẻ quá cao đang là gánh nặng của đất nước
chúng ta, nó trực tiếp ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế vốn còn nghèo
và chưa phát triển, đến tài nguyên thiên nhiên, công ăn việc làm, ăn, ở, đi lại,
học hành, sức khoẻ ...của xã hội so với thế giới. Do vậy, việc giảm thấp tỷ lệ sinh
đẻ nhằm hạn chế tốc độ gia tăng dân số trở thành vấn đề chiến lược và cấp bách
của toàn cầu và mỗi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Bốn chỉ tiêu cụ
thể là: không tảo hôn trước 18 tuổi; sinh con đầu lòng sau 22 tuổi; phấn đấu chỉ
sinh 2 con, con sau cách con trước ít nhất 5 năm. Để dành thế chủ động trong
sinh đẻ, rõ ràng cần nắm các kiến thức về sinh lý sinh sản.
+ Sinh sản đối với gia súc: Sự
sinh sản là một quá trình sinh học phức tạp của cơ thể động vật đồng thời là chức
năng tái sản xuất của gia súc, gia cầm. Để tăng cường chức năng này nhằm nâng
cao sức sản xuất của đàn gia súc, trên cơ sở thực tiễn công tác chọn giống và tạo
giống mới, hoàn thiện những giống chủ yếu, nuôi dưỡng tốt những đàn gia súc non
cao sản, cần có sự hiểu biết đầy đủ về sinh lý sinh sản gia súc. Các nhà chăn
nuôi cũng cần nắm những kiến thức về các khía cạnh khác nhau của chức năng sinh
dục, chu kỳ tính, thụ tinh,thụ thai và có chửa, cũng như cơ chế thần kinh thể dịch
trong vai trò điều tiết chức năng sinh sản. Những kiến thức nêu trên làm cơ sở
tăng cường khả năng sinh sản đàn gia súc với chất lượng sản phẩm cao.
Ngoài ra, muốn phát triển mạnh
chăn nuôi thành một ngành sản xuất lớn chủ yếu, biện pháp hàng đầu là tăng
nhanh đàn vật nuôi bằng cách chăm sóc tốt con giống, tiến hành tốt khâu thụ
tinh (nhất là thụ tinh nhân tạo), tăng số con trong một lứa đẻ và cải tiến tỉ lệ
đực cái tuỳ đối tượng nuôi (cần lấy con, lấy trứng, lấy sữa hay lấy thịt, lấy mỡ,
lấy lông...). Các khâu kỹ thuật đều cần kiến thức cơ bản về sinh lý sinh sản động
vật.
DOWNLOAD:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét