Quần thể là nhóm cá thể
cùng một loài hoặc dưới loài, khác nhau về giới tính; về tuổi và về kích thước,
phân bố trong vùng phân bố của loài, chúng có khả năng giao phối tự do với nhau
(trừ dạng sinh sản vô tính) để sinh ra các thế hệ mới hữu thụ. Ví dụ: quần thể
cá mòi cờ hoa (Clupanodon thrissa L.) di cư vào sông Hồng để sinh sản, quần thể
cây mua (Melastoma candidum L.) sống ở các vùng đồi trung du.
Quần thể là một tổ chức
sinh học ở mức cao, được đặc trưng bởi những tính chất mà cá thể không bao giờ
có như cấu trúc về giới tính, về tuổi, mức sinh sản, mức tử vong - sống sót và
sự dao động số lượng cá thể của quần thể...
Do là một nhóm cá thể của
loài nên những loài nào có vùng phân bố hẹp, điều kiện môi trường khá đồng nhất
thường hình thành một quần thể.
Đó là những loài đơn hình (Monomorphis). Ngược
lại, những loài có vùng phân bố rộng, điều kiện môi trường không đồng nhất ở những
vùng khác nhau của vùng phân bố thì thường tạo nên nhiều quần thể thích nghi với
các điều kiện đặc thù của từng địa phương.
Đó là loài đa hình (Polymorphis).
Trong những trường hợp như thế, ở những quần thể, nhất là những quần thể sống
xa với quần thể ban đầu, nhất là bị cách li bởi các chướng ngại không gian (núi,
sông, biển...) và thời gian sẽ xuất hiện những khác biệt lớn, trước hết là những
khác biệt về đặc tính sinh thái, sinh lý....sau nữa là sự khác biệt về di truyền,
tạo nên các chủng sinh thái, chủng sinh lí, chủng di truyền. Chướng ngại trở
nên đáng kể, tạo nên sự cách li của quần thể về mặt di truyền thì một loài mới
được hình thành.
Đây là một trong những
cơ chế quan trọng trong sự phân hoá và tiến hoá của các loài. Tính đa hình càng
lớn, loài càng dễ dàng thích nghi với sự biến động có tính chu kỳ hay bất thường
của các yếu tố môi trường trong vùng phân bố rộng của mình.
Ý nghĩa sinh học quan
trọng của quần thể chính là khả năng khai thác nguồn sống, trước hết là năng lượng
một cách hợp lý nhất. Chiến lược năng lượng tối ưu là khuynh hướng chủ đạo để
xác lập và phát triển cấu trúc của quần thể. Môi trường, như N.P. Naumov (1961)
đã chỉ ra, là trường tập trung và truyền đạt thông tin trong các mối quan hệ,
nghĩa là trường của các tín hiệu sinh học có khả năng tạo nên sự hợp tác của
các thành viên cấu trúc nên quần thể.
Đối với con người, ý
nghĩa quan trọng nhất của quần thể là khả năng hình thành sinh khối của nó hay
khả năng tạo nên chất hữu cơ dưới 50 dạng
các cơ thể sinh vật mà con người có thể lựa chọn cho mục đích sử dụng của mình
(những sản phẩm có lợi, không có lợi, có hại). Tất nhiên, nhịp điệu, hiệu suất
và đặc tính của chất hữu cơ được tạo ra phụ thuộc vào đặc tính của quần thể và
vào các điều kiện môi trường mà quần thể đó sống.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét