Sự hấp thu ở ruột non
Sự hấp thu là sự thu nhận thức ăn đã bị tiêu
hoá vào trong máu hay bạch huyết qua một hay nhiều lớp tế bào của ống tiêu hoá.
Các đoạn của ống tiêu hoá đều có khả năng hấp thu các chất dinh dưỡng nhưng tác
dụng hấp thu chủ yếu và quan trọng nhất là
của ruột non.
−
Niêm mạc miệng và thực quản có khả năng hấp thu yếu ớt đối với một số chất
như các thuốc morphine, chất độc như cyanide.
−
Niêm mạc dạ dày có thể hấp thu một phần nào các chất nước, các muối đơn
giản, glucose, và hấp thu được rượu.
−
Niêm mạc ruột già: Có thể hấp thu nước và các chất hoà tan trong nước mà
có phân tử lượng thấp như glucose, các muối vô cơ (do đó có thể lợi dụng sự hấp
thu ở ruột già để thụt các chất dinh dưỡng vào cơ thể).
Nhưng niêm mạc ruột non là nơi hấp thu chính
và có thể xem là cánh cửa chính mở ra để thu nhận các chất dinh dưỡng của thức
ăn.
1. Cấu tạo của nhung mao (mao trạng
, lông ruột)
Cấu tạo thành ruột non rất phù hợp với chức phận
hấp thụ. Sự hấp thụ tiến hành rất chậm, tuy nhiên bề mặt của
màng nhày hấp thụ vẫn đủ lớn để đảm bảo một tốc độ hấp thu vừa phải. Niêm mạc ruột non
tăng diện tích tiếp xúc với thức ăn lên nhiều lần nhờ các nếp gấp. Người ta tính được ở một
đoạn ruột dài 280 cm, đường kính 4cm thì diện tích tiếp xúc bình thường là
3,3m2, nhưng ở trong ruột non diện tích thực tế là 10 m2.
Bề mặt niêm mạc lại được cấu tạo bởi
số lượng rất lớn các nhung mao và vi nhung mao, do vậy diện tiếp xúc lại tăng
lên một lần nữa, vào khoảng 30 lần so với diện tích ban đầu , đạt từ 250m2
đến 300m2 . Mỗi nhung mao được cấu tạo ngoài cùng là lớp biểu mô,
trong lòng nhung mao có hệ thống mạch máu , mạch bạch huyết, dây thần kinh. Phủ
lên lớp biểu mô là chất nhày để bảo vệ (hình 5.10). Tất cả cấu trúc đó có tác dụng
vận chuyển vật chất tích cực từ nhung mao sang máu và bạch huyết.
2. Cơ chế hấp thụ các chất ở ruột
non
Hấp thụ không phải chỉ là kết quả
của sự lọc vì huyết áp mao mạch chỉ 30 - 40mmHg, trong ruột lại càng ít hơn
(5mmHg), tuy huyết áp tăng thì hấp thu cũng có tăng chút ít. Khuếch tán và thẩm
thấu cũng quan trọng đối với hấp thụ,
tuy vậy không thể dùng khuếch tán và thẩm thấu để giải thích hấp thu vì thực tế
ruột có thể hấp thu cả nước lẫn dung dịch ưu trương, nhược trương ngược với quy
luật thẩm thấu.
Sự hấp thụ còn tạm thời ngừng dưới tác dụng của
các chất gây mê lên ruột. Điều này chứng tỏ hấp thu không là quá trình lí hoá
đơn thuần mà là quá trình sinh lý bình thường đặc trưng cho tế bào biếu mô của
ruột.
Sự hấp thụ là quá trình sinh lý phức tạp gồm
các hiện tượng sau: lọc, khuếch tán, vận chuyển tích cực.
a. Lọc- Khuếch tán
Cách vận chuyển này không đòi hỏi
tiêu hao năng lượng. Các chất hoà tan trong mỡ và trong các dung môi của mỡ qua
màng theo lối khuếch tán thụ động (màng tế bào hấp thụ bản chất là dạng mỡ nên
cho qua các chất hoà tan trong dung môi của mỡ) (khuếch tán). Các chất hoà tan
trong nước không qua được theo lối khuếch tán nhưng màng tế bào có những lỗ
thông rất nhỏ cho qua chất nước, và nước kéo theo các chất hoà tan trong nước
(lọc).
b. Vận chuyển tích cực
Đòi hỏi tiêu hao năng lượng: Phương thức vận chuyển này rất nhanh và vật
chất được vận chuyển có thể dễ dàng đi ngược bậc thang nồng độ và theo lượng nhất
định đối với mỗi chất qua màng (năng lượng do oxi hoá glucose cung cấp-do giải
phóng từ các liên kết nối P giàu năng lượng của ATP do enzyme ATPase xúc tác).
c. Sự hấp thụ còn được thực hiện
nhờ sự co bóp của các mao trạng. Trong thành mao trạng có các cơ trơn, sự
co giãn của mao trạng do dưỡng trấp tiếp
xúc với gốc mao trạng, có sự tham gia của tùng meissner. Khi các sợi cơ trơn
co, mao trạng thắt lại, máu và bạch huyết dồn ra khỏi mao trạng, khi giãn dưỡng
trấp sẽ tiếp tục bị hút vào qua các tế bào biểu mô ruột. Các acid mật, pepton,
glucose, một số acid amin đều có khả năng tăng cường cử động của mao trạng.
Vậy sự hấp thụ không là một quá trình lý hoá
đơn thuần mà là quá trình sinh lý bình thường đặc trưng cho tế bào biểu mô ở ruột.
Hấp thu do hệ thần kinh điều khiển qua tác dụng lên các dây thần kinh vận mạch
và các dây điều tiết cử động ruột.
3. Hấp thu glucid
Chất glucid ăn vào qua quá trình tiêu hoá đến
ruột được biến thành dạng đường đơn monosaccarid gồm glucose, fructose,
galactose và các pentose sẽ được hấp thu, một số disaccharid cũng được hấp thu nhưng vào phần đỉnh của tế bào nhung mao (mao trạng),
disaccarid được trải qua một giai đoạn thuỷ phân cuối cùng thành monosaccarid.
Các monosaccarid qua màng bằng
cách kết hợp với acid phosphoric. Phần lớn monosaccarid được hấp thu ngay trong
đoạn đầu của ruột non, qua màng nhày ruột vào trong máu, đổ về tĩnh mạch của
gan. Nếu nồng độ glucid trong máu lên quá 0,1%, khi qua gan sẽ được giữ phần thừa
lại và tổng hợp thành đường dự trữ (glycogen). Đường có thể được dự trữ trong
các cơ. Nếu trong máu không đủ 0,1% đường, gan sẽ giải phóng glucose từ
glycogen trả lại cho máu.
4. Hấp thụ Lipid
Lipid dưới tác dụng của lipase sẽ phân huỷ
thành glycerin và chất béo. Tuy nhiên một phần khá lớn lipid được hấp thu dưới
dạng nhũ tương diglycerid. Glycerin dễ tan trong nước và được hấp thụ ngay còn
acid béo thì phải kết hợp với các acid mật (và các chất kiềm để thành các chất
dễ hoà tan là sản phẩm của quá trình xà phòng hoá), sau đó mới có thể thấm qua
màng ruột. Những sản phẩm phân huỷ của lipid không được hấp thu vào trong máu
mà vào trong mao mạch bạch huyết. Khi qua tế bào màng nhày ruột, glycerin và
acid béo lại được tái kết thành mỡ.
Lipid được tiêu hoá và hấp thụ nhanh hay chậm
tuỳ loại: bơ dễ hấp thụ hơn mỡ lợn vì bơ dễ bị lipase phân huỷ và dễ nhũ tương
hoá.
5. Hấp thu protid
Dưới tác dụng của pepsin, protid bị phân huỷ
thành pepton và albumose, được trypsin,
peptidase phân huỷ tiếp thành acid amin hoà tan. Acid amin được hấp thu qua màng
nhày vào trong máu các lông hút (mao trạng), một phần nhỏ hấp thu dưới dạng pepton,
chỉ một phần rất nhỏ ở nguyên dạng. (Ví dụ: protid huyết thanh hoà tan trong nước,
lòng trắng trứng và casein sữa. Cơ thể còn non có khả năng này, nhờ đó còn có
thể nhận được những globulin miễn dịch từ mẹ qua sữa để có khả năng miễn dịch
khi cơ chế miễn dịch của bản thân chưa hoàn thiện, nhưng cơ thể trưởng thành nếu
còn khả năng này sẽ đưa vào cơ thể những prôtêin lạ có tính kháng nguyên và do
đó có thể bị dị ứng với thức ăn.
Nếu ta ăn protid nguồn gốc động vật, có thể
tiêu hoá và hấp thu 99%, protid gốc thực vật 75-80%. Các sản phẩm protid được hấp
thu sẽ được tổng hợp thành protid chủ yếu trong gan và cơ.
6. Hấp thu các vitamin
Trừ một số trường hợp, hầu hết các vitamin được
hấp thu tích cực bởi tế bào niêm mạc ruột không cần sự biến đổi hoá học nào .
Vitamin B1 phải được phosphoryl
hoá và chỉ được hấp thu tốt khi ăn vào cùng thức ăn. Vitamin B12 chỉ được hấp
thu khi kết hợp với một prôtêin đặc biệt gọi là " yếu tố nội". Các
vitamin tan trong mỡ cần có muối mật. Người ta cũng đã phát hiện các vật tải
cho vitamin D là acid folic
7. Hấp thu muối khoáng
Các muối khoáng hay chất vô cơ nói chung được
hấp thu dưới dạng ion , thông qua cơ chế vận tải tích cực. Người ta đã phát hiện
các vật tải của Ca, K, Fe, Zn, Na được hấp thu bởi cả hai cơ chế khuếch tán và
tích cực. các ion hoá trị hai hấp thu chậm hơn các ion có hoá trị 1. Mg++ liều
cao sẽ ứ lại ở ruột làm tăng sự hút nước vào ruột gây căng ruột, do đó làm tăng
nhu động gây ra ỉa chảy, vì vậy được dùng làm thuốc tẩy ruột, chống táo bón.
Các ion âm thường được hấp thu thụ động theo các ion dương.
8. Hấp thu nước
Nước được hấp thu ở dạ dày, ruột non,
ruột già.Trong ống tiêu hoá, ngoài nước vào theo với thức ăn còn có nước của
các dịch tiêu hoá.
Khối lượng nước được hấp
thụ qua ruột mỗi ngày rất lớn, gồm
có: Khoảng chừng 1500ml nước trong thức ăn, 1500ml nước bọt, 1500ml dịch vị, 750ml dịch
tuỵ, 750ml mật, 3000ml dịch ruột. Tổng cộng nước uống và nước trong các dịch
tiêu hoá rất lớn, có thể từ 7-10 lít, trong đó chỉ 500ml theo phân ra ngoài,
còn bao nhiêu được hấp thu vào trong máu. Một phần nhỏ nước được hấp thu qua
các lỗ thông nhỏ ở màng tế bào nhưng phần quan trọng là hấp thu tích cực có
tiêu hao năng lượng, mạnh gấp 100-200 lần hấp thu theo lối khuếch tán và thẩm
thấu. Nhờ có sức hấp thu mạnh như thế nên niêm mạc ruột có thể hấp thụ các dịch
ưu trương.
Nhìn chung niêm mạc ruột non là diện trao đổi
tích cực giữa môi trường ngoài và môi trường trong cơ thể. Diện trao đổi này giải
quyết từ 90-99% các chất ăn uống vào, nhất là các chất nước và điện giải. Do đó
một sự rối loạn nào trong quá trình hấp thu ở ruột non đều có ảnh hưởng nghiêm
trọng và nhanh chóng đến toàn cơ thể.
9. Điều hoà hấp thu
Kích thích thần kinh giao cảm làm giảm hấp thu, ngược lại, kích thích thần
kinh phó giao cảm làm tăng hấp thu của ruột. Sở dĩ như vậy là do giao cảm gây
co mạch giảm lưu lượng máu tới ruột, trái lại phó giao cảm gây dãn mạch làm
tăng lưu lượng máu tới ruột. Như vậy sự hấp thu phụ thuộc chủ yếu vào lưu lượng
máu tới ruột, lưu lượng máu tăng hấp thu tăng, lưu lượng máu giảm hấp thu giảm.
Ở ruột già hấp thu kém do lưu lượng máu tới ruột giảm.
Một số chất như hormon vỏ tuyến thượng thận,
tuyến giáp, tuyến tuỵ (insulin) cũng làm tăng sự hấp thu ở ruột. Sự hấp thu còn phụ thuộc bản chất hoá học của
các chất dinh dưỡng. Tỷ lệ các chất trong khẩu phần thức ăn cũng
ảnh hưởng. Cường độ hấp thu các
chất cũng khác nhau và thay đổi qua từng đoạn ruột. Nhiệt độ môi trường, sự vận
động thể lực của cơ thể, yếu tố tâm lý... cũng ảnh hưởng đến cường độ hấp thu.
Các bệnh lý về ruột non làm ảnh hưởng đến quá trình hấp thu.
DOWNLOAD:
1 nhận xét:
bài viết rất bổ ích
Đăng nhận xét