Để có cơ sở cho việc bón phân hợp
lý, ngoài việc xác định nhu cầu dinh dưỡng của cây, còn phải xác định khả năng
cung cấp của đất.
1. Xác định khả năng cung cấp
của đất.
Khả năng cung cấp của đất là lượng
chất dinh dưỡng trong đất hay độ màu mỡ của đất. Độ màu mỡ này tùy thuộc vào
các loại đất khác nhau. Có thể sử dụng phương pháp hóa học và sinh học để xác định
độ phì nhiêu của đất.
- Phương pháp phân tích hóa học
Phương pháp phân tích hóa học là
phương pháp nhanh chóng nhất. Để xác định
độ phì nhiêu của đất, cần tiến hành phân tích thành phần các nguyên tố dinh dưỡng
có trong đất. Hàm lượng dinh dưỡng trong đất gồm 2 chỉ tiêu: tổng số và dễ
tiêu.
Lượng chất dinh dưỡng dễ tiêu thường
di động trong dung dịch đất. Phân tích lượng dinh dưỡng dễ tiêu cần phải hòa
tan trong nước và trong dung môi. Nhưng trên thực tế khó tìm ra được một dung
môi hòa tan hết các chất đó như môi trường
cây đã hút vì vậy các phân tích vẫn
không chính xác tuyệt đối .
Lượng tổng số thì ngoài chất dinh
dưỡng tan trong dung dịch đất còn lượng dinh dưỡng hấp phụ trên keo đất và giữ
chặt trong đất. Lượng tổng số chưa phản ánh đầy đủ về tính chất và độ phì của đất
vì cây chỉ sử dụng một số. Khả năng cung cấp của đất thường lớn hơn lượng dinh
dưỡng dễ tiêu vì còn có lượng chất dinh dưỡng hấp phụ có khả năng trao đổi trên
bề mặt keo đất.
- Phương pháp sinh học
Để xác định độ phì nhiều của.một
loại đất nào đó, ta lấy một lượng đất nhất định rồi gieo vào đó một lượng hạt
nhất định. Trước khi gieo hạt, người ta đã phân tích lượng chất dinh dưỡng chứa
trong lượng hạt ltương đương với lượng hạt đem gieo. Để cho hạt nảy mầm và cây
con sinh trưởng tự nhiên mà không bón gì thêm ngoài tưới nước tinh khiết. Sau một
thời gian, các cây con hút kiệt hết các chất dinh dưỡng mà đất có khả năng cung
cấp. Tiến hành phân tích toàn bộ chất dinh dưỡng có trong toàn bộ mẫu thu hoạch.
Khả năng cung cấp chất dinh dưỡng của đất sẽ bằng lượng chất dinh dưỡng có
trong mẫu cây trừ đi các chất dinh dưỡng trong hạt.
2. Xác lượng dinh dưỡng mà
cây cần
Người ta cũng có thể xác lượng dinh dưỡng mà
cây cần từ khi trồng đến khi thu hoạch để cho năng suất tối đa. Vì vậy, phải
phân tích thành phần và số lượng các chất vào lúc thu hoạch. Lượng chất dinh dưỡng
mà cây cần đã lấy ở trong đất thường tỷ lệ thuận với năng suất.
Lượng chất dinh dưỡng còn phụ thuộc
vào nhiều điều kiện ngoại cảnh:
- Khí hậu: khi gặp hạn hán hoặc đất
mặn thì lượng tro trong cây càng ao. Củ cải đường càng lên phía Bắc thì nhu cầu
N, K nhiều, lại hút ít Ca, P và S.
- Số lượng phân bón: bón nhiều
phân, cây hút nhiều (bị lốp đổ là do hút quá nhiều N). Phải dựa vào tổng số và
tỷ lệ chất dinh dưỡng mà cây yêu cầu qua
các thời kỳ khác nhau.
- Giống: các giống khác nhau có
nhu cầu dinh dưỡng khác nhau.
- Tuổi cây: ở mỗi giai đoạn sinh
trưởng yêu cầu về số lượng và tỷ lệ chất dinh dưỡng khác nhau.
- Loại đất: có cây thích nghi pH
chua: lúa, cao su, cà phê, khoai tây; có cây thích nghi pH trung tính: ngô,
mía; hoặc pH kiềm: bông, củ cải...
Ta có thể kết hợp cả hai phương
pháp để tìm ra độ màu mỡ cần thiết của đất.
3. Phương pháp bón phân hợp
lý.
Cơ sở của việc xây dựng chế độ
bón phân hợp lý là dựa vào nhu cầu dinh dưỡng của cây và khả năng cung cấp của
đất, nhưng phải có phương pháp bón hợp lý.
- Thời kỳ bón phân
Mỗi thời kỳ sinh trưởng, cây trồng
cần các chất dinh dưỡng khác nhau với lượng bón khác nhau. Vì vậy cần phân phối
lượng dinh dưỡng theo yêu cầu của cây trong các giai đoạn khác nhau. Có hai thời
kỳ cần ưu tiên cung cấp cho cây là thời kỳ khủng hoảng và thời kỳ hiệu suất
cao.
Thời kỳ khủng hoảng của một
nguyên tố dinh dưỡng là thời kỳ mà thiếu nguyên tố đó sẽ ảnh hưởng xấu nhất đến
sinh trưởng và năng suất.
Thời kỳ hiệu suất cao là khoảng thời gian mà
nguyên tố dinh dưỡng có tác dụng tốt nhất đến năng suất, lượng chất dinh dưỡng
cần ít nhất cho một đơn vị sản phẩm thu hoạch nên đầu tư phân bón đạt hiệu quả
cao nhất Thông thường trong sản xuất thì thời kỳ hiệu suất cao không trùng đúng
vào thời kỳ khủng hoảng.
Theo Đào Thế Tuấn, thời kỳ khủng
hoảng P đối với lúa là thời kỳ đẻ nhánh, thời kỳ hiệu suất cao là thời kỳ mạ.Thời
kỳ khủng hoảng N của ngô (theo Nguyễn Đức Bình) là thời kỳ cây con (từ 3 đến 6
lá).Vì vậy cần ưu tiên cho các thời kỳ đó.
- Phương pháp bón phân thích hợp
Tùy theo từng loại cây trồng và
điều kiện để có phương pháp bón phân thích hợp. Có thể sử dụng phương pháp bón
lót, bón thúc, bón viên, bón phun qua lá...
+
Bón lót là bón phân trước khi gieo trồng nhằm cung cấp chất dinh dưỡng
cho sự sinh trưởng ban đầu của cây, Tùy
theo cây trồng và loại phân bón mà bón lót với lượng khác nhau. Ưu điểm của bón
lót là đỡ tốn công, nhưng cây không thể sử dụng ngay một lúc, phần còn lại dễ bị
rửa trôi.
Với phân lân và vôi do hiệu quả của
chúng chậm và cần nhiều cho giai đoạn sinh trưởng ban đầu nên thường bón lót lượng
lớn, có thể bón lót toàn bộ.
+ Bón thúc là bón nhiều lần vừa
thỏa mản nhu cầu, vừa tránh lãng phí do bị rửa trôi. Tùy theo từng loại cây trồng
mà phân phối lượng bón thúc ra các đợt khác nhau. Ví dụ như với lúa, có thể bón
thúc đẻ nhánh, bón đón đồng, bón nuôi hạt...
Bón lót kết hợp với bón thúc thì
hiệu quả sử dụng phân tốt nhưng phức tạp và tốn khá nhiều công. Với phân đạm và
kali, hiệu quả của chúng nhanh và dễ bị rửa trôi nên thường chỉ bón lót một lượng
vừa đủ cho sinh trưởng ban đầu của cây trồng, còn chủ yếu là bón thúc.
- Về cách bón:
Thường phân được bón vào đất hay
hòa tan vào nước để tưới hoặc phun lên lá...Với các cây rau, hoa, cây giống các
loại...thì phun qua lá thường cho hiệu quả cao. Đặc biệt với các phân bón vi lượng,
chất điều hòa sinh trưởng và các chế phẩm phun lá thường phải sử dụng phương pháp
phun.
Xu hướng chung hiện nay là cố gắng
giảm bớt số lần bón phân để giảm số công đầu tư, thuận tiện cho việc cơ giới
hóa mà vẫn đảm bảo năng suất cao
2 nhận xét:
Tôi muốn hỏi là tại sao những thực vật sống trong nước hầu như không được và không cần bón phân nhưng vẫn phát triển bình thường?
Cây rừng cũng đâu được bón phân đâu bạn. Nói chung trong nước cây lấy dinh dương hòa tan trong nước bạn à. Còn cây trồng người ta bổ sung thêm dinh dưỡng để nâng cao năng suất thôi.
Đăng nhận xét