1
Hình thái của tế bào
a. Hình dạng tế bào
Tế bào thường có hình dạng tương đối ổn
định và đặc trưng cho mỗi loại tế bào.
Ví dụ: tinh trùng, tế bào trứng, tế bào thần kinh, tế bào hồng cầu, các loại tế
bào biểu mô...
Tuy vậy, có một số tế bào luôn luôn
thay đổi hình dạng như: amíp, bạch cầu... Trong môi trường lỏng, tế bào có dạng
hình cầu như bạch cầu trong máu. Đa số tế bào động vật và thực vật có dạng hình
khối đa giác, có loại phân nhánh.
b. Kích thước tế bào
Kích thước của tế bào rất khác nhau đối
với các loài khác nhau. Nói chung, tế bào có độ lớn trung bình vào khoảng 3 -
30μm. Nhưng có những tế bào rất lớn có thể nhìn thấy, sờ mó được như trứng gà,
trứng vịt... Tế bào có kích thước lớn nhất là trứng đà điểu, đường kính đạt tới
17,5cm. Trái lại, đa số tế bào vi khuẩn có kích thước từ 1 - 3μm.
Ngày nay, người ta đã khám phá ra một
loại tế bào có thể xem là nhỏ nhất, đó là tế bào microplasma laidlawii có đường
kính 0,1μm, chỉ lớn hơn nguyên tử hydro 1.000 lần và gần bằng kích thước của
siêu vi khuẩn. Trong nó chỉ chứa khoảng 1.000 hoặc chục nghìn các đại phân tử
sinh học và tổng hợp vài chục các enzyme khác nhau.
Thể tích của tế bào cũng rất thay đổi ở
các dạng khác nhau. Tế bào vi khuẩn có thể tích vào khoảng 2,5μm3. Đối với các
tế bào của các mô ở người (trừ một số tế bào thần kinh) có thể tích vào khoảng
từ 200 đến 15.000μm3. Thường thể tích của các loại tế bào là cố định
và không phụ thuộc vào thể tích chung của cơ thể. Ví dụ: tế bào thận, gan của bò,
ngựa, chuột... đều có thể tích như nhau. Sự sai khác về kích thước của cơ quan
là do số lượng tế bào chứ không phải là do kích thước của tế bào.
c. Số lượng tế bào
Số lượng tế bào trong các cơ thể khác
nhau thì rất khác nhau. Sinh vật đơn bào, cơ thể chỉ có một tế bào. Các sinh
vật đa bào, trong cơ thể có từ vài trăm tế bào (như nhóm trùng bánh xe có 400
tế bào) đến hàng tỉ tế bào. Ví dụ: cơ thể người có 6.1014 tế bào chỉ
tính riêng hồng cầu trong máu người cũng đã đạt tới 23 nghìn tỉ.
Tuy nhiên, cơ thể đa bào dù có số lượng
tế bào lớn đến bao nhiêu cũng được phát triển từ 1 tế bào khởi nguyên: hợp tử.
2. Các dạng tế bào và cấu trúc đại cương
Trong thực tế, không tồn tại một dạng
tế bào chung nhất cho tất cả các cơ thể sinh vật, mà tế bào phân hoá ở nhiều
dạng khác nhau trong quá trình tiến hoá của sinh vật. Ngày nay, nhờ kỹ thuật
kính hiển vi điện tử, người ta đã xác lập được hai dạng tế bào:
- Dạng tế bào nhân sơ (Procaryota) có
tổ chức còn nguyên thuỷ, chưa có màng nhân.
- Dạng tế bào có nhân chính thức (Eucaryota).
a. Tế bào nhân sơ (Procaryote)
Thuộc loại tế bào nhân nguyên thuỷ có
vi khuẩn (bacteria) và vi khuẩn lam (cyamobactena). Tế bào của chúng có kích
thước từ 0,5 - 3μm, thiếu màng nhân, thiếu các bào quan chính thức như: lục
lạp, thể lyzosom, phức hệ Golgi... Ở nhóm sinh vật này, thông tin di truyền
được tích trong nhiễm sắc thể gồm mạch xoắn kép ADN dạng vòng, nhiễm sắc thể
này không chứa các prôtêin kiềm, thiếu
bộ máy phân bào và hạch nhân. Ví dụ: tế
bào vi khuẩn escherichia coli (hình 4.2).
Vách
tế bào
Vách tế bào bao phía ngoài màng sinh
chất tạo nên khung cứng vững chắc cho tế bào; có nhiệm vụ bảo vệ sự tác động cơ
học, giữ và cố định hình dạng của tế bào, quan trọng hơn cả là chống chịu các
tác nhân bất lợi, nhất là áp suất thẩm thấu của môi trường bên ngoài. Độ vững
chắc của vách tế bào có được là nhờ các tính chất của peptidoglucan (còn gọi là
murein) chỉ có ở procaryote. Peptidoglucan được cấu tạo từ hai loại đường gắn
với một peptid ngắn gồm hai acid amin, chỉ có ở vách tế bào vi
khuẩn. Các đường và các peptid kết nối
với nhau thành một đại phân tử bao bọc toàn bộ màng tế bào.
Do phản
ứng nhuộm màu violet mà người ta phân biệt được hai loại vi khuẩn:
Gram dương hấp thụ và giữ lại màu và
Gram âm không nhuộm màu.
Vách tế bào của các vi khuẩn Gram dương
như streptococus rất dày, gồm peptidoglucan.
Vách của tế bào Gram âm như E.coli gồm 3 lớp: màng tế bào trong cùng, peptidoglucan
và lớp dày ngoài cùng gồm lipoprotein và liposaccharide tạo phức hợp lipopolysaccharide.
Dưới vách tế bào là màng sinh chất bao bọc tế bào chất.
Mesosome là cấu trúc do màng tế bào xếp
thành nhiều nếp nhăn, lõm sâu vào khối tế bào chất. Có thể đây là nơi gắn ADN
vào màng.
Trong nguyên sinh chất có vùng tương tự
nhân gọi là nucleotide. Bộ gen chứa một phân tử ADN lớn, vòng tròn, trơn (nghĩa
là không gắn thêm protein). Sợi ADN của tế bào procaryota cũng mang bộ gen xếp
theo đường thẳng, các gen này xác định các đặc tính di truyền của tế bào và các
hoạt tính thông thường nên cũng được gọi
là nhiễm sắc thể.
Ngoài ra, tế bào procaryote còn có thể
có các phân tử ADN nhỏ độc lập gọi là plasmid.
plasmid thường cũng có dạng vòng tròn.
Các ribosome nằm rải rác trong tế bào
chất, chúng sẽ gắn lên mARN để tổng hợp protein.
Phần lớn vi khuẩn quang hợp chứa
chlorophyll gắn với màng hay các phiến mỏng (tấm).
Một số vi khuẩn có các cấu trúc lông
nhỏ gọi là tiêm mao (flagella) dùng để bơi.
Tế bào procaryota phân bố khắp nơi trên
quả đất. Chúng sinh trưởng rất nhanh, chu kỳ một thế hệ ngắn, đa dạng về sinh
hoá và rất mềm dẻo về di truyền.
b.
Tế bào nhân thực (eucaryota)
Tế bào của tất cả các cơ thể còn lại như: tảo,
nấm, động vật đơn bào, tế bào thực vật và
động vật thuộc loại tế bào có nhân chính thức. Nhóm sinh vật này
nhận được bọc trong màng nhân. Trong tế
bào chất, hệ thống màng rất phát triển như: mạng lưới nội sinh chất, phức hệ
Golgi, cùng các bào quan có màng như ty thể, lạp thể, lyzosom. Nhân chứa hạch
nhân và nhiễm sắc thể. Nhiễm sắc thể gồm ADN và histon. Quá trình phân bào rất phức
tạp nên cần có bộ máy phân bào.
Tế
bào thực vật
Tế bào thực vật có lớp vỏ bao ngoài:
polysaccharide (cellulose), trong tế bào chất có chứa các không bào. Bộ máy
phân bào thường thiếu trung tử. Đa số tế bào thực vật có lục lạp là cơ quan
chuyển hoá quang năng thành hoá năng. Sự phân chia tế bào chất thực hiện nhờ sự
phát triển một vách ngăn mới chia tế bào thành hai phần bằng nhau
Tế
bào động vật
Tế bào động vật thường không có vỏ bao
ngoài, không có lục lạp, phân bào bằng sự hình thành eo thắt .
Trong cơ thể động vật, các tế bào phân
hoá khác nhau phụ thuộc vào chức năng riêng của chúng. Ở các động vật đơn bào,
cơ thể chỉ gồm một tế bào, nhưng có nhiều cơ quan nhỏ (bào quan đảm nhận chức
năng khác nhau, giống như động vật đa bào).
Tất cả các dạng tế bào khác nhau phản
ánh tính chất tiến hoá đa dạng của vật chất sống, cho phép tế bào thích nghi
với những chức năng khác nhau, thích nghi với những điều kiện sống khác nhau.
So sánh tế bào nhân sơ và tế bào nhân
thực
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Như Hiền, Trịnh Xuân Hậu
(2000), Tế bào học, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội.
2. Phạm Thành Hổ (1995), Sinh học đại
cương - Tế bào học, Di truyền học, Học
thuyết tiến hoá, Tủ sách Đại học tổng
hợp Tp. Hồ Chí Minh.
DOWNLOAD:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét