Các vấn đề pháp lý của công nghệ
sinh học hiện đại
Công nghệ DNA tái tổ hợp đã giúp
các nhà khoa học thay đổi cơ chế tiến hóa của tự nhiên, sáng tạo ra sản phẩm của
gen, tạo ra các dạng sinh vật mới. Ngày càng có nhiều bằng chứng hiển nhiên về lợi
ích của công nghệ DNA tái tổ hợp. Tuy nhiên, cũng phải
cân nhắc đến những nguy cơ tiềm tàng của nó, và thực tế cũng đã nảy sinh
một số vấn đề pháp lý quan trọng buộc chúng ta phải xem xét lại một cách thận
trọng.
Chẳng hạn, chúng ta có
thể tham khảo hệ thống quản
lý đối với các sản phẩm cây trồng của công nghệ sinh học hiện đại ở Mỹ,
nơi mà lĩnh vực công nghệ sinh học được đầu tư và phát triển tốt nhất trên thế
giới. Hệ thống quản lý của Mỹ là một bộ
phận quan trọng nhằm đảm bảo an toàn lương thực. Phối hợp với Bộ Nông nghiệp Mỹ
(USDA) và Cục Bảo vệ Môi trường (EPA), Cục quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA)
đóng vai trò quản lý các loại lương thực có nguồn gốc thực vật được tạo ra nhờ
công nghệ sinh học.
Theo Đạo luật
Lương thực, Dược
phẩm và Mỹ phẩm
(FD&C), FDA có thẩm quyền bảo đảm độ an toàn của tất cả các lương thực trong
nước và nhập khẩu cho người và động vật
trên thị trường Mỹ. Ngoại trừ thịt
gia súc-gia cầm và
một số
sản phẩm trứng,
những hạng mục này thuộc
phạm vi điều
tiết của USDA. Tuy nhiên,
độ an toàn của dư lượng
thuốc thú y trong thịt gia súc, gia cầm và thủy sản là do FDA quản lý. Thuốc trừ
sâu lại chủ yếu do EPA điều tiết. Cơ quan Kiểm tra Sức khoẻ Thực vật và Động vật của
USDA (APHIS) có chức năng
giám sát an
toàn nông nghiệp và an toàn môi
trường trong trồng trọt và thử nghiệm tại hiện trường các giống cây trồng được
tạo ra nhờ công nghệ sinh học.
Các loại
lương thực và thành phần
lương thực được tạo ra
nhờ công nghệ sinh học phải đáp ứng những tiêu chuẩn an toàn tương tự như các
tiêu chuẩn mà Đạo luật FD&C áp dụng
đối với các cây trồng được tạo
ra theo phương pháp
lai giống thông
thường. Điều này có
nghĩa là các sản phẩm công nghệ sinh học cũng phải an toàn giống
như các sản phẩm truyền thống trên thị trường. FDA có quyền loại
trừ một loại lương
thực khỏi thị trường hoặc trừng phạt những người buôn bán
loại lương thực đó nếu nó gây ra rủi ro đối với
sức khỏe cộng đồng. Cần lưu ý rằng
Đạo luật FD&C quy định những người
áp dụng công
nghệ sinh học phải chịu
trách nhiệm pháp
lý nhằm đảm bảo rằng những lương thực mà họ bán cho người tiêu dùng phải
an toàn và đáp ứng tất cả các yêu cầu về pháp lý.
1. An toàn sinh học
a. Sự chuyển gen bằng hạt phấn
Cho tới
nay không có hạt phấn của loại
cây trồng biến đổi gen
nào được hạn chế khả năng
phát tán. Các
phương thức quản
lý như cách
ly không gian và thời gian có thể hạn chế sự lưu chuyển gen (gene flow)
giữa cây trồng, hạn chế hạt sót lại trong đất và cây sót lại sau khi thu hoạch.
Việc sử dụng vùng cách ly, rào cản
cây trồng và các rào cản thực vật khác giữa nguồn tạo và nơi nhận hạt
phấn cũng có thể giảm mức độ phát tán hạt phấn.
Thời gian hạt phấn ở trong không khí cũng khá dài, do đó có thể phát
tán đến khoảng cách khá xa. Tuy nhiên, điều kiện thời
tiết và môi trường thay đổi
có thể gây ra sự
phát tán ở những khoảng cách xa hơn nữa.
Các biện pháp cách ly sinh học đang được phát triển nhằm xác định liệu sự sinh
sản ở cây trồng có thể kiểm soát được hay không để tránh sự giao lưu gen qua hạt
hoặc hạt phấn.
Đặc biệt ở
các giống hoặc
dòng có cây bất dục đực, sẽ xảy ra hiện
tượng lai xa với giống biến đổi gen hữu thụ ở một tần số cao hơn và khoảng cách
xa hơn so với giống truyền thống. Sự
tích lũy gen (gene stacking) đã được quan sát ở
cây trồng và người ta dự đoán
là cây trồng mang gen đa kháng sẽ
trở nên phổ biến sau khi cây trồng chuyển gen được phép đưa vào thị trường, và
vì vậy cây mọc hoang biến đổi gen sẽ phải cần các biện pháp diệt cỏ khácCác
nghiên cứu cho thấy phần lớn sự thụ phấn chéo xảy ra ở khoảng cách ngắn
và khả năng
thụ phấn thành
công giảm theo hàm mũ
so với khoảng cách từ nguồn phát ra hạt phấn. Nhưng trên phạm vi nông trại vẫn có
sự lưu chuyển gen, mặc dù mức độ
xảy ra
rất thấp ở một khoảng cách khá
xa, vì vậy sự tách biệt hoàn toàn về mặt di truyền là rất khó duy trì.
Trong khi hạt phấn
đóng vai trò
quan trọng trong
sự phát tán
theo không gian thì hạt giống đóng vai trò quan trọng trong sự phát tán
theo thời gian. Do đó, khi cách ly cây trồng chuyển gen với cây trồng không
chuyển gen phải tính đến chuyện trước đó cây trồng chuyển gen có được trồng
trên cùng mảnh đất đó không và tập quán canh tác có gây ra sự di chuyển các hạt
giữa các mảnh ruộng hay không.
Ngoài ra, sự lưu chuyển gen giữa
cây biến đổi gen và họ hàng của nó còn
tùy thuộc vào loại
tính trạng gen chuyển quy định, đặc
điểm sinh học của cây (thụ phấn chéo hoặc
tự thụ phấn) và bối cảnh nông nghiệp (hệ thống cây trồng, tổ chức không gian giữa
các thửa ruộng).
b. Sự bền vững của DNA trong đất
DNA của cây chuyển gen có thể được
phóng thích vào môi trường từ các nguyên liệu thực vật đã già hoặc mục nát. Vấn
đề này đã được khảo sát ở một số cây chuyển gen như thuốc lá (aacC1), hoa dã
yên (NOS-nptII) và củ cải đường (bar/TR1, TR2/nptII, 35S/BNYVV-cp). Sự bền vững
của cấu trúc DNA trong đất được phát hiện
bằng cách tách chiết DNA trực
tiếp từ đất, sau
đó khuếch đại cấu trúc
này bằng kỹ thuật
PCR. Chọn lọc primer thích hợp cho phép phát hiện rõ ràng cấu
trúc chuyển gen bên cạnh các gen xuất hiện tự nhiên. Với phương pháp này sự hiện
diện của cấu trúc DNA có thể được phát hiện nhưng không có
thông tin nào về sự hiện diện
của nó trong nguyên liệu thực vật mục nát, có thể do DNA
tự do đã được hấp thụ vào bề mặt
đất. DNA của cây củ cải đường chuyển gen được phát hiện trong mẫu đất ở vị
trí đã không
sử dụng 6,
12 và 18
tháng sau khi
cây củ cải ường bị
cày lấp trong đất. Người ta
cũng đã tìm thấy DNA
cây thuốc lá chuyển gen ở trong đất
sau hơn 1 năm thu hoạch. Trong
khi đó DNA của hoa dã yên chuyển gen chỉ có
thể phát hiện vào thời điểm
2 tháng sau khi cây được cày lấp trong đất.
Mặc dù chỉ có một vài khảo sát về
sự bền vững của DNA cây chuyển gen ở trong đất, nhưng sự bền vững của cấu trúc
trong một thời gian dài có thể được chứng minh rõ ràng.
c. Chuyển gen ngang từ thực vật
vào vi sinh vật đất
Chuyển gen ngang (horizontal gene
transfer) là hiện tượng chuyển các gen hoặc nguyên liệu di truyền trực tiếp từ
một cá thể riêng biệt vào một cá thể khác bằng các quá trình
tương tự sự gây nhiễm. Phân biệt
với một quá trình bình thường là chuyển gen dọc (vertical gene transfer)-từ bố mẹ vào con cái-xuất
hiện trong quá trình
sinh sản. Chuyển gen
ngang trong phần này đề cập đến DNA ngoại lai của cây
chuyển gen hiện diện ở trong đất, vi khuẩn phát
triển khả năng để nhận gen này và cuối cùng, các trình
tự này được hợp nhất trong genome của vi khuẩn.
Nguy cơ của công
nghệ di truyền
đó là làm
tăng tiềm năng của sự chuyển gen ngang qua các loài không họ
hàng. Các cơ chế tế bào cho phép các gen ngoại lai xen đoạn vào genome của một
loài nào đó. Các gen kháng thuốc diệt cỏ hoặc kháng kháng sinh của vi khuẩn thường
được sử dụng như là các chỉ thị chọn lọc đối với cây chuyển gen. Vì thế, chuyển
ngang từ thực vật vào vi sinh vật của các gen kháng như thế thường được xem như
là một hiệu ứng tiềm tàng không mong muốn giữa cây chuyển gen và
các vi sinh vật đất.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có bằng
chứng rõ
ràng về việc chuyển gen từ thực vật vào các vi sinh vật. Hiện nay, các
nghiên cứu an toàn sinh học (biosafety)
về chuyển gen ngang từ cây chuyển gen
vào vi sinh vật (vi khuẩn và nấm) có hai hướng chính là tìm hiểu cơ chế chuyển
gen từ thực vật vào vi sinh vật và đánh giá các hậu quả sinh thái của nó.
Cơ chế chủ yếu của việc chuyển
gen từ thực vật vào vi sinh vật là quá trình biến nạp tự nhiên đòi hỏi sự hấp
thụ DNA tự do. Vi khuẩn đất có thể biến nạp
tự nhiên và hợp nhất DNA ngoại
lai trong genome của mình. Để chuyển
gen từ thực vật vào vi sinh vật ở điều kiện đồng ruộng, không phải chỉ có cơ chế
cho phép hấp thụ và sao chép trong một vật chủ mới mà sự chọn lọc vật chủ để biểu hiện một tính
trạng mới là quan trọng nhất. Phát hiện chuyển gen ngang
có thể
thực hiện bằng cách phân tích vi
khuẩn đất sau giai đoạn nuôi cấy đầu tiên.
d. Chuyển gen từ thực vật vào
virus
Kết quả đầu tiên về cây
chuyển gen biểu
hiện prôtêin vỏ của virus khảm
thuốc lá (TMV) đã ngăn chận sự phát
triển của bệnh xuất hiện trong năm 1986. Phương thức này
sau đó đã được sử dụng để tạo ra
tính kháng cho các loại virus khác nhau, tuy nhiên các nhà di truyền học
đã đặt câu hỏi về sự an toàn của cây trồng chuyển gen ngay từ những ngày đầu
tiên. Nguy cơ rõ rệt nhất
là tiềm năng tạo ra
các virus gây nhiễm mới bằng sự tái tổ
hợp, ví dụ: gen chuyển của virus (viral transgene) liên kết hoặc trao đổi các phần
với nucleic acid của các virus khác. Do vỏ prôtêin không ngăn được virus xâm nhập
vào tế bào thực vật, gen chuyển (transgene) sẽ được tiếp xúc với các nucleic
acid của nhiều virus được mang tới thực vật bởi các vector côn trùng (insect
vector).
Một số nghiên cứu đã chứng minh rằng
các virus thực vật có thể tấn
công một loạt các gen virus khác nhau từ cây chuyển gen.
Chẳng hạn:
- Virus gây bệnh khảm
hoại tử ở
cây cỏ ba lá
màu đỏ
(red clover necrotic mosaic
virus-RCNMV) dạng khiếm khuyết đã thiếu
gen cho phép nó chuyển từ tế bào này đến tế bào khác (vì thế không gây nhiễm được)
đã tái tổ hợp với một bản sao của gen
đó trong cây
thuốc lá chuyển
gen Nicotiana benthamiana, và đã sinh sản các virus gây nhiễm.
- Cây cải Brassica napus chuyển
gen VI, một nhân tố hoạt động dịch mã, của virus khảm súp-lơ (cauliflower
mosaic virus-CaMV), đã tái tổ hợp với
phần bổ sung của virus
thiếu mất gen đó,
và tạo ra
virus gây nhiễm trong 100% cây chuyển gen.
- Sự tái tổ
hợp giữa CaMV dạng hoang dại và dạng
chuyển gen VI được chứng minh
trong N. bigelovii. Ít nhất một trong số các virus tái tổ hợp có độc tính hơn dạng
hoang dại.
- Cây N. benthamiana
biểu hiện một đoạn
gen prôtêin vỏ của virus CCMV (cowpea chlorotic mottle virus) đã
tái tổ hợp với virus khiếm khuyết thiếu gen đó.
Nhiều khảo sát cho thấy
trong các thí nghiệm có CaMV tần số
tái tổ hợp cao hơn nhiều so với
các virus khác. Trong khi CCMV tái tổ hợp được phục hồi từ 3% cây chuyển gen N.
benthamiana, thì CaMV tái tổ hợp được phục hồi từ 36% cây chuyển gen N.
bigelovii. Người ta nghi ngờ rằng sự đứt gãy DNA sợi đôi có thể xảy ra trong
trường hợp tái tổ hợp ở CaMV do thực tế là DNA chuyển gen bao gồm cả promoter
CaMV 35S.
2. An toàn thực phẩm
Các giống cây trồng
chuyển gen ngày càng được phát triển nhờ
vào các công cụ của công nghệ sinh học hiện đại. Cũng chính vì vậy mà nhiều người
băn khoăn rằng liệu các thực phẩm này có an toàn bằng các loại thực phẩm có được
nhờ sử dụng các phương pháp nông nghiệp truyền thống hay không. Vậy sự khác biệt
giữa lai giống thông thường và công nghệ sinh học thực vật là gì. Thực
ra cả hai đều có cùng một một mục
tiêu là tạo ra
các giống cây trồng có chất lượng cao với những đặc tính đã được cải thiện giúp
chúng phát triển tốt hơn và ngon hơn. Sự khác biệt là ở chỗ mục đích này đạt được bằng cách nào.
Lai giống truyền thống đòi hỏi sự
trao đổi hàng ngàn gen giữa hai cây để có được
tính trạng mong muốn. Trong khi
đó, nhờ công nghệ sinh học hiện đại,
chúng ta có thể lựa chọn một đặc tính mong muốn và chuyển riêng nó vào hạt giống.
Sự khác biệt giữa hai kỹ thuật này là rất lớn. Phương pháp công nghệ sinh học hợp
lý hơn, có hiệu quả cao và đem lại kết quả rất tốt.
Các kỹ thuật sử dụng trong công
nghệ sinh học hiện đại cung cấp cho những
nhà lai tạo giống những
công cụ chính
xác cho phép họ chuyển những đặc tính mong muốn vào cây trồng.
Hơn thế nữa, họ có thể làm điều này mà không bị chuyển thêm các tính trạng
không mong muốn vào cây như vẫn thường xảy ra, nếu sử dụng lai giống truyền thống.
Thực phẩm có nguồn gốc từ cây trồng
chuyển gen phải trải qua nhiều thử nghiệm hơn bất kỳ loại
thực phẩm nào trong lịch sử.
Trước khi được đưa ra thị
trường, chúng phải được đánh giá sao cho phù hợp với các quy định do một
vài tổ chức khoa học quốc tế đưa ra như Tổ chức Y tế Thế giới, Tổ chức Nông
Lương, Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế… Những quy định này như sau:
- Các sản phẩm chuyển gen cần được
đánh giá giống như các loại thực phẩm khác. Các nguy cơ gây ra do
thực phẩm có nguồn gốc từ công
nghệ sinh học cũng có bản chất giống như các loại thực phẩm thông thường.
- Các sản phẩm này
sẽ được xem xét dựa trên độ
an toàn, khả năng gây dị ứng, độc tính
và dinh dưỡng của chúng hơn là dựa vào phương pháp và kỹ thuật sản xuất.
- Bất kỳ một chất mới nào được
đưa thêm vào thực phẩm
thông qua công nghệ sinh học đều phải được
cho phép trước
khi đưa ra thị trường, cũng giống việc các loại chất phụ gia
mới như chất bảo quản hay màu thực phẩm cần phải được cho phép trước khi thương
mại hóa.
Một số nhận định trong vấn đề an
toàn thực phẩm hiện nay như sau:
- Mức độ ăn toàn của thực phẩm
chuyển gen ít nhất cũng tương đương với các thực phẩm khác bởi vì quá trình
đánh giá an toàn đối với thực phẩm chuyển gen kỹ lưỡng hơn nhiều so với việc đánh giá các thực phẩm khác. Quá trình đánh giá an toàn thực
phẩm đảm bảo rằng thực phẩm chuyển gen mang
lại tất cả các lợi
ích như thực phẩm thông
thường và không có thêm một tác hại
nào.
- Chưa có bằng chứng nào cho thấy
thực phẩm chuyển gen hiện đang có
trên thị trường gây
ra bất cứ lo ngại nào về sức khoẻ
con người hay có bất kỳ khía cạnh nào
kém an toàn
hơn so với
cây trồng tạo được nhờ
lai giống truyền thống.
- Một điểm đặc trưng của kỹ thuật
chuyển gen là nó đưa vào một hay nhiều gen đã được xác định rõ. Điều này giúp
cho việc thử nghiệm độc tính của các cây
trồng chuyển gen dễ thực hiện
hơn so với các cây
trồng bình thường.
a. Các chất gây dị ứng
Một trong những mối quan tâm lớn
nhất về thực phẩm chuyển gen là chất gây dị ứng
(một prôtêin gây ra dị ứng)
có thể được chuyển vào thực phẩm. Đến nay các nhà khoa học đã biết rất
nhiều về các thực phẩm gây ra dị ứng ở
trẻ nhỏ và người trưởng thành. Khoảng 90% sự dị ứng thức ăn
là có liên quan tới
tám thực phẩm và nhóm thực phẩm-động vật có vỏ (tôm, cua, sò, hến), trứng, cá, sữa, lạc, đậu
tương, quả hạch và lúa mỳ. Những loại thực phẩm này và rất nhiều chất gây dị ứng
khác đã được xác định rất rõ và do vậy khó tin rằng chúng có thể được đưa vào
thực phẩm chuyển gen.
Tuy vậy, việc kiểm tra
tính dị ứng vẫn là một khâu
quan trọng trong việc kiểm tra an
toàn trước khi một giống cây trồng được đưa ra
làm thực phẩm. Hàng loạt các thử
nghiệm và câu hỏi phải được xem xét kỹ để quyết định liệu thực phẩm này có làm
tăng sự dị ứng hay không.
Các chất gây dị ứng có những đặc
tính chung như không bị phân hủy trong quá trình tiêu hóa, có xu hướng không bị
phân hủy trong quá trình chế biến thực phẩm,
và thường có rất nhiều
trong thực phẩm.
Cho đến nay, không có loại prôtêin nào được chuyển
vào thực phẩm chuyển gen đã được thương mại hóa
lại mang những đặc tính nói trên. Chúng không có tiền sử và khả năng gây dị ứng hay độc tính,
cũng không giống với các chất gây dị ứng hay các độc tố đã biết và nói chung chức
năng của chúng đã được biết rõ. Những prôtêin này có một hàm lượng rất
thấp trong thực phẩm chuyển gen, nhưng nhanh chóng bị
phân hủy trong dạ dày và đã được kiểm tra độ an toàn trong các nghiên cứu về thực
phẩm cho động vật.
Các gen mã hóa thông
tin di truyền có mặt trong
tất cả các loại thực phẩm và việc ăn chúng không gây ra bất kỳ
ảnh hưởng xấu nào. Không có tác hại di
truyền nào xảy
ra khi tiêu
hóa DNA cả. Trên thực tế, chúng
ta luôn nhận DNA mỗi khi ăn do nó có mặt ở tất cả thực vật và động vật.
b. Đánh giá độ an toàn của các
thực phẩm
Bất kỳ một sản phẩm chuyển gen
nào trước khi được đưa ra thị trường phải được
thử nghiệm toàn diện, được các
nhà khoa học và các giám định viên đánh giá độc lập xem có an toàn về dinh dưỡng, độc tính và khả năng gây dị ứng hay không. Các
khía cạnh khoa học thực
phẩm này dựa
trên những quy định của các tổ chức có thẩm quyền của mỗi nước, bao gồm:
một hướng dẫn sử dụng sản phẩm,
thông tin chi tiết về mục đích sử dụng
sản phẩm, các thông tin về phân tử, hóa sinh, độc tính, dinh dưỡng và khả
năng gây dị ứng.
Các câu hỏi điển hình có thể được đặt ra là: (1) Các thực phẩmchuyển gen có được tạo ra từ thực
phẩm truyền thống đã được công nhận an toàn
hay không. (2) Nồng
độ các độc tố hay chất gây dị ứng
trong thực phẩm có thay đổi hay
không. (3) Hàm lượng các chất dinh dưỡng chính có thay đổi hay không. (4) Các
chất mới trong thực phẩm chuyển gen có đảm bảo tính an toàn
hay không. (5) Khả năng tiêu hóa thức ăn có bị thay đổi hay không. (6) Các
thực phẩm có được tạo ra nhờ các quy trình đã được chấp nhận hay không.
Ngay khi các câu hỏi này và các
câu hỏi khác về thực phẩm chuyển gen đã
được trả lời, vẫn còn nhiều việc phải làm
trong quá trình phê chuẩn trước khi thực phẩm chuyển gen được thương mại
hóa. Thực tế, thực phẩm chuyển gen là loại
sản phẩm được nghiên cứu nhiều nhất
trong các loại đã được sản xuất.
3. Đạo đức sinh học
Đạo đức sinh học (bioethics) là một phạm
trù phức tạp mà cách nhìn nhận
tùy thuộc vào đặc điểm dân tộc và văn hóa khác nhau. Cho nên, những vấn đề được
coi là hợp với đạo đức ở nơi này có thể
là trái đạo đức ở nơi khác. Thuật
ngữ này có lẽ bắt nguồn ở Mỹ vào những năm 1970, khi các kỹ thuật thao
tác gen (gene manipulation), còn gọi là kỹ thuật
di truyền hay công nghệ DNA tái tổ hợp, được áp dụng.
Phạm trù đạo đức sinh học bao hàm
cách đánh giá lợi ích và rủi ro liên quan tới sự can thiệp của con người, đặc
biệt là công nghệ mới, xem xét làm cân đối sự theo đuổi quyền tự do cá nhân với
trách nhiệm pháp lý. Đạo đức sinh học đòi hỏi phải đánh giá công nghệ thật kỹ,
trong đó có đánh giá ảnh hưởng đến xã hội và cá nhân.
Cùng với thời gian,
vấn đề này
ngày càng trở
nên sâu sắc.
Trước những xáo trộn do sự phát triển của di truyền học, người ta tự hỏi
mình đang tiến tới loại xã hội nào và sự cân bằng mới nào trên hành tinh sẽ được
thiết lập.
Đạo đức sinh học không giới hạn
suy nghĩ về mối quan hệ giữa khoa học và xã hội. Nó gắn liền quan hệ giữa con
người với tự nhiên trong tính đa dạng
sinh học của nó, kể cả bản chất của chính con người. Mặt khác, đạo đức
sinh học là một cách suy nghĩ về tương
lai và giá trị của chúng ta. Nó giúp
cho giới chuyên môn đối thoại với những người ra quyết định và người dân, cùng
quan tâm đến sự tồn tại của xã hội loài người.
Ngày 25/7/1978,
bé gái được
thụ tinh trong ống nghiệm
(Louise Brown) đã ra đời ở Anh. Từ đó đến nay, kỹ thuật này đã
tạo ra không biết bao nhiêu em bé như vậy trên thế giới, kể cả ở Việt
Nam. Mục đích đầu tiên của công việc
này là hoàn
toàn lành mạnh. Trong trường
hợp của Louise Brown, người mẹ bị
vô sinh do khuyết tật ở vòi trứng nên để giúp bà có con, người ta đã lấy tế bào
trứng của bà thụ tinh trong ống nghiệm với chính tinh trùng của chồng bà, rồi cấy hợp
tử vào ngay tử cung của bà. Về mặt sinh học và pháp lý, em bé là con của họ và
điều này cũng không đặt ra vấn đề gì về đạo đức hay vi phạm một điều luật
nào.
Nhưng một vấn đề tế nhị và phức tạp
khác lại được đặt ra nếu một phụ nữ không
thể hoặc không muốn mang thai, đề
nghị một phụ nữ khác nhận trứng được thụ tinh của mình và mang hộ cái thai đó,
vậy đứa con sẽ là của ai. Cho đến nay, ở những nước có dịch vụ mang thai hộ đã
phát sinh nhiều vụ kiện, vì người được thuê nhiều khi phá hợp đồng, không muốn
trả lại đứa con cho người thuê nữa.
Một biểu hiện của chủ nghĩa ưu
sinh dưới dạng mới, đó là người ta hy vọng có được những đứa con thiên
tài bằng cách xin hoặc mua
tinh trùng của các
nhà bác học được giải
thưởng Nobel, cho thụ
tinh với trứng
của những phụ nữ trẻ đẹp và thông minh
rồi cấy phôi vào những phụ nữ này.
Nhưng cách
làm này không
chắc chắn tuyệt
đối do quy luật phân
ly di truyền và đứa con sinh ra vẫn
có thể thuộc loại tầm thường. Sau thành công nhân bản cừu
Dolly, người ta
hy vọng khắc
phục được vấn đề trên bằng
cách “nhân bản các thiên tài” nhờ chính tế bào của họ. Như ta đã biết, nhân bản
người là một vấn đề rất khó và hiện nay
hầu như bị cấm trên thế giới. Vả lại đồng nhất di truyền không có
nghĩa là đồng nhất bản sắc cá nhân. Xét về mặt luân lý và đạo đức việc làm trên
không thể chấp nhận được, còn về mặt khoa học cũng khó hiện thực: thiên tài chỉ
biểu hiện ở một độ tuổi nào đó và nếu định cho ra thiên tài theo cách này cũng
khó vì hình dạng và thể chất của người mẹ đã khác trước. Lại càng khó thực hiện
nếu thông qua một phụ nữ xa lạ không phải là mẹ mình, vì hệ gen của tế bào chất
trong trứng lạ cũng có ảnh hưởng và sẽ không phát huy được như của chính mẹ
mình.
Hiện nay, sự phát
triển nhanh chóng của
công nghệ sinh học đã đặt cho các
ủy ban đạo đức và luật pháp trên thế giới những vấn đề sau đây:
-
Có nên cho
phép thay đổi
chương trình di
truyền của người
hay không; và nếu cho phép thì ở
mức độ nào, cho dù việc làm này được biện
minh là để chữa các bệnh di truyền.
- Có nên chấp nhận
việc chẩn đoán
trước khi sinh để lựa chọn giới tính của đứa trẻ hay không.
- Có nên bắt buộc thực hiện các
chương trình phát hiện di truyền phục vụ lợi ích sức khoẻ của người dân hay để
mỗi cá nhân nhận xét cơ hội dựa vào các thử nghiệm mà kết quả có thể trái ngược,
ảnh hưởng tới họ và người thân của họ (ví dụ việc sinh ra một đứa con có thể có
rủi ro khuyết tật hay không).
- Có nên cấm liệu pháp gen (gene therapy) nhằm vào các tế bào sinh dục hay không. Theo Suleiman,
giáo sư nghiên cứu các vấn đề quốc tế và
giám đốc của Ủy ban nghiên cứu châu Âu (Đại học Princeton, Mỹ) thì “Nhà nước cần
xác định mức độ
can thiệp vào
nghiên cứu khoa học qua
tranh luận công khai nhằm hợp pháp hóa hành động cũng như để người dân
kiểm soát các hành động này. Tóm lại, nhà nước cần hợp tác với cộng đồng khoa học
để đảm bảo tự do nghiên cứu và ứng dụng
hợp đạo đức các kết quả từ đó”.
4. Quyền tác giả và sở hữu trí tuệ
a. Quyền tác giả
Mặc dù
đã có rất
nhiều cuộc tranh
luận ở các diễn đàn quốc tế về quyền tác giả của
các nước có nguồn gen quý
hiếm được phương Tây sử dụng trong công nghệ tạo giống nhưng đến nay vẫn chưa đem lại một kết quả thât sự
nào. 169 nước đã đăng ký vào công ước Quốc tế về Đa dạng sinh học (Convention on
Biological Diversity) và công ước này có hiệu lực từ 12/1993,
trong đó quy định cùng
chia sẻ quyền
lợi giữa các nước có nguồn gen với các công ty phương Tây sử dụng
nguồn gen đó. Tuy nhiên, từ đó đến nay các nước có nguồn gen quý hiếm vẫn tiếp
tục bị mất dần tài sản quốc gia của mình mà quyền lợi được chia sẻ thì không
đáng kể. Chẳng hạn,
năm 1994 hãng
ArgEvo phân lập được gen
PAT (phosphinothricin
acetyltransferase) từ dòng
vi khuẩn Streptomyces viridochromogens có trong mẫu đất
lấy từ Camerun. Gen PAT cho phép tạo ra các giống cây trồng kháng thuốc diệt cỏ
nhóm glufosinate, đóng góp quan trọng vào doanh số 2,3 tỷ USD của AgrEvo năm
1995. Tuy nhiên, hãng này đã từ chối không trả cho Camerun một khoản tiền nào về
quyền tác giả. Ngày 16/1/1996, Bản quyền
sở hữu số
5.484.889 của Mỹ được cấp
cho Giáo sư Sylvia Lee-Huang (Đại học New York) để bảo vệ quyền tác giả của ông về
một loại
prôtêin chiết từ một
giống mướp đắng (Momordica charantia) có nguồn gốc từ miền
Nam Trung Quốc. Giống mướp đắng này là
thành phần chính của một bài thuốc
dân gian cổ truyền của Trung Quốc để chống
nhiễm trùng. Lee-Huang đã cho rằng nhờ công nghệ DNA tái tổ
hợp, từ nay ông không cần phải mua hạt mướp đắng từ Trung Quốc nữa, vì các prôtêin tái tổ
hợp sản xuất trong phòng
thí nghiệm của ông hoàn toàn giống
như prôtêin chiết từ quả mướp đắng trước đây.
Các trường hợp
trên cho thấy các công
ty lớn ở các nước phát
triển nhờ vào tiềm
năng khoa học
và nguồn vốn dồi dào của
mình đã
thương lượng về bản quyền tác giả
với tư
thế của kẻ mạnh. Sự thua thiệt của các nước yếu về công nghệ sinh học
sẽ còn kéo dài.
b. Sở hữu trí tuệ
Một trong những nét đặc trưng của
công nghệ sinh học hiện đại là sự gia tăng tính sở hữu của nó. Hiện nay, ngành
công nghệ sinh học được bảo vệ bởi các bằng sáng chế và các quyền về sở hữu trí
tuệ (IPR). Như chúng ta biết, sở hữu trí tuệ đại diện cho các sản phẩm của trí
tuệ.
Chúng là các ý tưởng được chuyển
thành dạng hữu hình. Ví dụ của sở hữu trí
tuệ bao gồm: các sáng chế, phần mềm
máy tính, ấn phẩm, băng đĩa ca nhạc, giống
cây trồng-vật nuôi... Để tạo ra những sản phẩm như vậy thường đòi hỏi một khoảng
thời gian dài và một nguồn vốn đầu tư lớn. Do vậy, các nhà sáng chế thường tìm
cách thu hồi các nguồn đầu tư bằng cách sử dụng IPR. IPR
cho phép các
sáng chế giới hạn quyền
sử dụng sở hữu trí tuệ,
không một cá nhân hoặc tổ chức nào được
phép sử dụng để sản xuất, nuôi trồng, bán hay
đề nghị để sáng
chế mà không được cho phép. Có một số hình
thức để bảo vệ các tác giả bao gồm: quyền tác giả,
sáng chế, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu hàng hóa, quyền bảo hộ giống cây
trồng-vật nuôi...
Các bằng
sáng chế, quyền
bảo hộ giống
cây trồng-vật nuôi
và các nhãn hiệu hàng hóa được
ban hành bởi chính phủ của từng quốc gia
và sự bảo hộ chỉ có hiệu lực trong các nước mà sở hữu trí tuệ (IP) được ban
hành.
Do vậy, để nhận được sự bảo hộ ở
nhiều nước, các quyền này phải được áp dụng
và thông qua ở mỗi
nước. Còn quyền tác giả và bí
mật kinh
doanh không đặc trưng theo quốc gia. Hiện nay, nhiều công nghệ mũi
nhọn được sử dụng để tạo ra các sản phẩm công nghệ sinh học nông nghiệp dường
như không được bảo hộ ở các nước đang phát
triển. Chẳng hạn, các bằng sáng chế đối với promoter CaMV 35S chỉ được cấp
và có hiệu lực ở Hoa kỳ và Châu Âu (và ở
Nhật Bản chỉ có một đơn xin đăng ký cấp bằng). Do đó, hiện nay chưa có IP
nghiêm cấm các nước đang phát triển sử dụng
công cụ này trong nghiên cứu.
Hơn nữa, các tổ chức và cá nhân
có thể sử dụng các công nghệ trong tạo giống cây trồng bao gồm triển khai, sản
xuất và tiêu thụ ở các nước mà công nghệ sản xuất này chưa có IP bảo hộ. Tuy
nhiên, các vấn đề liên quan đến IP sẽ
phát sinh ở các nước có những công nghệ được bảo hộ bởi IPR. Thời gian phát triển sản phẩm cũng cần
được cân nhắc kỹ lưỡng vì các bằng sáng chế có thể được cấp ở trong nước cùng
thời điểm phát triển sản phẩm. Do vậy, các nhà khoa học ở các nước đang
phát triển cần phải biết về các vấn đề
liên quan đến IP và có phương án giải quyết thích hợp.
Cây trồng được canh tác để sử dụng bền vững ở các nước đang phát triển
và các công nghệ được áp dụng để tạo ra các cây trồng này đang nhận được rất ít
sự quan tâm thương mại của khu vực kinh tế tư nhân. Trên thực tế, các
công nghệ này đã và đang được
chuyển giao nhằm tăng năng suất mùa vụ. Tuy nhiên, các nhà khoa học ở
các nước đang phát triển cần thận trọng vì chuyển giao công nghệ liên quan
đến nhiều vấn đề, không chỉ là ký kết
các hợp đồng chuyển giao nguyên
liệu và cấp giấy phép
sử dụng cho một sản phẩm. Cả bên chuyển giao và bên tiếp nhận công nghệ phải thận trọng với các IPR liên quan đến công nghệ
và điều này là cần thiết cho các đối tác để tạo sự tin tưởng lẫn nhau giữa các
bên tham gia. Các nước đang phát triển
luôn thiếu năng lực và nguồn lực quản lý IP để
tiến hành các phân tích và đánh
giá về sự cho phép sử dụng công nghệ nhằm phát triển sản phẩm nhập khẩu, sử dụng
hoặc xuất khẩu sản phẩm. Do vậy, để giúp
chuyển giao các công nghệ ứng dụng
trong nông nghiệp cho các nước đang phát
triển, việc xây dựng khả năng quản
lý IPR là rất
quan trọng cho cả bên chuyển giao và bên
tiếp nhận công nghệ. Cây trồng được
canh tác để sử dụng bền vững ở các nước đang phát triển và các công nghệ được ứng
dụng để tạo ra các cây trồng này rõ ràng nhận được ít sự quan tâm thương mại của
khu vực kinh tế tư nhân. Trên thực tế các công nghệ này đã và đang được chuyển
giao nhằm tăng năng suất mùa vụ. Trong
lĩnh vực công nghệ sinh học nông nghiệp, sáng chế có thể bao gồm: các
phương pháp chuyển
gen ở thực vật, các
vector, các gen... Các sáng chế giữ vai trò quyết định nhất
trong bảo hộ công nghệ sinh học nông nghiệp và được đánh giá là công cụ mạnh nhất
trong hệ thống IP. Các sáng chế tạm thời,
thường được bảo hộ trong khoảng
20 năm và tùy thuộc vào mỗi quốc gia.
Nói chung, các cơ quan nghiên cứu
khoa học của chính phủ cần xây dựng năng lực quản lý sở hữu trí tuệ mà họ nhận
được hay tạo ra. Kiến thức về IPR sẽ giúp các nhà khoa học của các nước đang
phát triển xác định được các thông tin về một công nghệ nhất định đã thuộc quyền
sở hữu công cộng và họ có quyền sử dụng. Hơn nữa, IP do các khu vực kinh tế nhà
nước tạo ra có thể được xem xét là tài
sản được trao đổi với các công ty tư
nhân hoặc được sử dụng làm hàng hóa trong các đàm phán chuyển giao công nghệ. Sự
hợp tác giữa các khu vực kinh tế nhà nước và tư nhân trong phát triển công nghệ
nhờ chia sẻ bí quyết sản xuất và IP sẽ thúc đẩy sự chuyển giao công nghệ cũng như
đem lại lợi ích cho cả hai bên.
Theo GT Nhập môn Công nghệ sinh học (Chờ 5 giây và nhấn Skip ad để tải)
DOWNLOAD:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét