1. Quy luật tác động tổng hợp.
Môi trường bao gồm nhiều yếu tố
có tác động qua lại, sự biến đổi các nhân tố này có thể dẫn đến sự thay đổi về
lượng, có khi về chất của các yếu tố khác và sinh vật chịu ảnh hưởng sự biến đổi đó. Tất cả các yếu tố đều gắn bó chặt chẽ với nhau tạo thành một
tổ hợp sinh thái. Ví dụ như chế độ chiếu sáng trong rừng thay đổi thì nhiệt độ,
độ ẩm không khí và đất sẽ thay đổi và sẽ ảnh hưởng đến hệ động vật không xương
sống và vi sinh vật đất, từ đó ảnh hưởng đến chế độ dinh dưỡng khoáng của thực
vật.
- Mỗi nhân tố sinh thái chỉ có thể
biểu hiện hoàn toàn tác động khi các nhân tố khác đang hoạt động đầy đủ. Ví dụ
như trong đất có đủ muối khoáng nhưng cây không sử dụng được khi độ ẩm không
thích hợp; nước và ánh sáng không thể có ảnh hướng tốt đến thực vật khi trong đất
thiếu muối khoáng.
2. Qui luật giới hạn sinh thái Shelford (1911,
1972)
Ảnh hưởng của các yếu tố sinh
thái lên sinh vật rất đa dạng, không chỉ phụ thuộc vào tính chất của các yếu tố
sinh thái mà cả vào cường độ của chúng. Đối với mỗi yếu tố, sinh vật chỉ thích ứng
với một giới hạn tác động nhất định, đặc biệt là các yếu tố sinh thái vô sinh.
Sự tăng hay giảm cường độ tác động của yếu tố ra ngoài giới hạn thích hợp của
cơ thể sẽ làm giảm khả năng sống hoặc hoạt
động. Khi cường độ tác động tới ngưỡng cao nhất hoặc thấp nhất so với
khả năng chịu đựng của cơ thể thì sinh vật không tồn tại được. Giới hạn chịu đựng
của cơ thể đối với một yếu tố sinh thái nhất định đó là giới hạn sinh thái hay trị số sinh thái (hoặc biên độ sinh
thái).
Còn mức độ tác
động có lợi nhất đối với cơ thể gọi
là điểm cực thuận (Optimum). Những loài
sinh vật khác nhau có giới hạn sinh thái và điểm cực thuận khác nhau, có loài
giới hạn sinh thái rộng gọi là loài rộng sinh thái, có loài giới hạn sinh thái
hẹp gọi là loài hẹp sinh thái. Như vậy mỗi một loài có một giá trị sinh thái
riêng. Trị sinh thái của một sinh vật là khả năng thích ứng của sinh vật đối với
các điều kiện môi trường khác nhau.
Nếu một loài sinh vật có giới hạn sinh thái rộng đối với một yếu tố nào
đó thì ta nói sinh vật đó rộng với yếu tố đó, chẳng hạn “rộng nhiệt”, “rộng muối”,
còn nếu có giới hạn sinh thái hẹp ta nói sinh vật đó hẹp với yếu tố đó, như “hẹp nhiệt”, “hẹp muối”... Trong sinh
thái học người ta thường sử dụng các tiếp đầu ngữ: hep (Cteno-), rộng (Eury-),
ít (Oligo-), nhiều (Poly-) đặt kèm với tên yếu tố đó để chỉ một cách định tính
về mức thích nghi sinh thái của sinh vật đối với các yêu tố môi trường.
Ví dụ: loài chuột cát đài nguyên
chịu đựng được sự dao động nhiệt độ không khí tới 800C (từ -500C
đến +300C), đó là loài chịu nhiệt rộng hay là loài rộng nhiệt
(Eurythermic), hoặc như loài thông đuôi ngựa không thể sống được ở nơi có nồng
độ NaCl trên 40/00, đó là loài chịu muối thấp hay loài hẹp
muối (Stenohalin).
3. Qui luật tác động không đồng đều của yếu tố
sinh thái lên chức phận sống của cơ thể.
Các yếu tố sinh thái có ảnh hưởng khác nhau lên các chức phận sống của
cơ thể, nó cực thuận đối với quá trình
này nhưng có hại hoặc nguy hiểm cho quá trình khác. Ví dụ như nhiệt độ không
khí tăng đến 400 - 50 0C sẽ làm tăng các quá trình trao đổi
chất ở động vật máu lạnh nhưng lại kìm hảm sự di động của con vật.
Có nhiều loài sinh vật trong chu
kỳ sống của mình, các giai đoạn sống khác nhau có những yêu cầu sinh thái khác
nhau, nếu không được thỏa mản thì chúng sẽ chết hoặc khó có khả năng phát triển.
Ví dụ loài tôm he (Penaeus merguiensis) ở giai đoạn thành thục sinh sản chúng sống
ở biển khơi và sinh sản ở đó, giai đoạn đẻ trứng và trứng nở ở nơi có nồng độ
muối cao (32 - 36 0/00), độ pH = 8, ấu trùng cũng sống ở
biển, nhưng sang giai đoạn sau ấu trùng (post-larvae) thì chúng chỉ sống ở những
nơi có nồng độ muối thấp (10 - 250/00)
(nước lợ) cho đến khi đạt kích thước trưởng thành mới di chuyển đến nơi có nồng
độ muối cao.
Hiểu biết được các qui luật này,
con người có thể biết các thời kỳ trong chu kỳ sống của một số sinh vật để
nuôi, trồng, bảo vệ hoặc đánh bắt vào lúc thích hợp.
4. Qui luật tác động qua lại giữa sinh vật và
môi trường
Trong mối quan hệ tương hổ giữa quần thể, quần
xã sinh vật với môi trường, không những các yếu tố sinh thái của môi trường tác
động lên chúng, mà các sinh vật cũng có ảnh hưởng đến các yếu tố sinh thái của môi
trường và có thể làm thay đổi tính chất của các yếu tố sinh thái đó.
5. Quy luật tối thiểu
Quy luật này được nhà hoá học người
Đức Justus Von Liebig đề xuất năm 1840 trong công trình “Hoá học hữu cơ và sử dụng
nó trong sinh lý học và nông nghiệp”. Ông lưu ý rằng năng suất mùa màng giảm hoặc
tăng tỷ lệ thuận với sự giảm hay tăng các chất khoáng bón cho cây ở đồng ruộng.
Như vậy, sự sinh sản của thực vật bị giới hạn bởi số lượng của muối khoáng.
Liebig chỉ ra rằng “Mỗi một loài thực vật đòi hỏi một loại và một lượng muối
dinh dưỡng xác định, nếu lượng muối là tối thiểu thì sự tăng trưởng của thực vật
cũng chỉ đạt mức tối thiểu”.
Khi ra đời, quy luật Liebig thường
áp dụng đối với các loại muối vô cơ. Theo thời gian, ứng dụng này
được mở rộng, bao gồm một phổ rộng các yếu tố vật lý, mà trong đó nhiệt
độ và lượng mưa thể hiện rõ nhất. Tuy vậy quy luật này cũng có những hạn
chế vì nó chỉ áp dụng đúng trong trạng thái
ổn định và có thể còn bỏ qua mối
quan hệ khác nữa.
Chẳng hạn, trong ví dụ về phốt
pho (phosphor) và năng suất, Liebig cho rằng phốt pho là nguyên nhân trực tiếp
làm thay đổi năng suất. Sau này người ta thấy rằng sự có mặt của muối nitơ
(nitrogen) không chỉ ảnh hưởng lên nhu cầu
nước của thực vật mà còn góp phần làm cho thực vật lấy được phốt pho ở dưới dạng
không thể đồng hoá được. Như vậy, muối nitơ
là yếu tố thứ 3 phối hợp tạo ra hiệu quả.
Theo GT Sinh thái học (Chờ 5 giây và nhấn Skip ad để tải)
DOWNLOAD:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét