Ty thể được phát hiện và mô tả đầu tiên
bởi Altman từ năm 1894 và đến năm 1897 Benda đặt tên là mitochondria. Cấu trúc
siêu hiển vi của ty thể được Palad nghiên cứu bằng kính hiển vi điện tử vào năm
1952 và Sjostand vào năm 1953.
1.
Cấu tạo hình thái
Hình dạng chung của ty thể trong các
loại tế bào khác nhau thì rất khác nhau và thường có dạng sợi, hạt hoặc cả sợi
và hạt trong một tế bào. Ví dụ: trong tế bào gan, ty thể có thể thay đổi từ
dạng hạt sang sợi và ngược lại; còn trong tế bào biểu bì ruột, dạng sợi nằm ở
phần ngoài, dạng hạt nằm ở phần trong.
Kích thước của chúng cũng rất thay đổi,
ở đa số tế bào ty thể có chiều dày tương đối cố định, khoảng 0,5μm, chiều dài
thì thay đổi và tối đa là 7μm.
Số lượng ty thể trong các loại tế bào
khác nhau thì khác nhau và ở các trạng thái sinh lý khác nhau cũng khác nhau.
Ví dụ: trong tế bào gan chuột có đến 2.500, còn trong tinh trùng một số sâu bọ
chỉ có 5 - 7 ty thể.
Ty thể được cấu tạo bởi 2 lớp màng
giống màng tế bào.
- Màng ngoài: dày 60Å, bảo đảm tính
thấm của ty thể.
- Màng trong: dày 60Å. Từ màng trong
hình thành nên các mấu lồi ăn sâu vào trong xoang ty thể gọi là tấm hình răng
lược (crista). Màng trong chia xoang ty thể thành 2 xoang.
+ Xoang ngoài nằm giữa màng trong mà
màng ngoài rộng khoảng 60 - 80Å và thông với xoang của các vách răng lược.
+ Xoang trong được giới hạn bởi màng
trong và chứa đầy chất nền của ty thể gọi là matrix. Chất nền thường là đồng
nhất, nhưng đôi khi quan sát thấy có các sợi mỏng hoặc các hạt nhỏ có mật độ
điện tử cao, các hạt này là nơi đính các cation hai hoá trị, đặc biệt là Mg+2
và Ca+2.
Các tấm hình răng lược là những vách
ngăn không hoàn toàn. Số lượng các tấm răng lược không giống nhau ở những tế
bào khác nhau và ở các loài khác nhau.
Mặt trong của màng trong có những khối
hình cầu đường kính 80 -100Å đính vào bề mặt của tấm hình răng lược nhờ một cái
cuống dài 30 -50Å - gọi là hạt cơ bản. Trong một ty thể có tới 104 -
105 hạt cơ bản (Vermander - Moran 1963). Hạt cơ bản có 3 chức năng:
- Thực hiện phản ứng oxy hoá khử, giải
phóng e-
- Vận chuyển e- đến để tổng hợp ATP.
- Thực hiện phản ứng phân giải ATP và
cung cấp năng lượng cho các hoạt động của tế bào.
b. Thành phần hoá học
Thành phần hoá học của ty thể chủ yếu
gồm:
- Protein chiếm khoảng 60 - 70% trọng
lượng khô và tồn tại dưới 2 dạng khác nhau:
một phần tham gia vào thành phần siêu
cấu trúc của ty thể, phần khác hoà tan trong matrix.
- Lipid chiếm khoảng 25 - 30% trọng
lượng khô, chủ yếu là các phospholipid và một phần ít cholesterol.
Ngoài ra, trong ty thể có chứa một
lượng không lớn ARN (khoảng 0,5 - 3%) và ADN (khoảng 0,024 - 0,34%). Nass
(1963, 1964), Lin và Pei (1965) cũng đã tìm thấy glycogen trong ty thể.
Ty thể chứa một số lượng lớn các hệ
enzyme tham gia vào quá trình hô hấp của tế bào như: các enzyme
citocromoxydase, sucsinatdehydrogentase; các enzyme của dây chuyền điện tử:
NADP và NADcitocromcreductase,... Ngoài ra, trong chất nền còn có chứa các enzyme
tham gia chu trình acid béo, các enzyme nucleotide khác nhau, các cofecenzyme và
các ion vô cơ K+, HPO4-, Mg++, C-
-, SO4- -...
c. Chức năng
Chức năng quan trọng của ty thể là nơi
tổng hợp năng lượng dưới dạng hợp chất cao năng ATP. Nhờ chứa hệ thống enzyme
chuyền điện tử, enzyme của chu trình Creb và phosphoryll hoá mà ty thể đã thực
hiện các quá trình oxy hoá các hydratcacbon, acid béo, các acid amin và một số
chất khác như cholin. Năng lượng được giải phóng ra trong các quá trình đó được
tích vào liên kết phosphat cao năng của ATP theo phản ứng:
ADP + P vô cơ + E (năng lượng) à ATP
Đồng thời ty thể cũng là nơi cung cấp
năng lượng chủ yếu cho mọi hoạt động của tế bào. Quá trình cung cấp năng lượng
thực hiện theo phản ứng:
ATP à ADP + P vô cơ + năng lượng
Ngoài ra, ty thể còn có khả năng tổng
hợp các chất chủ yếu, cần thiết cho hoạt động của ty thể như các enzyme hô hấp,
protein...
d. Nguồn gốc phát sinh
Giả thuyết trước đây cho rằng, trong quá trình tiến hoá của tế
bào thì ty thể có nguồn gốc từ sự phân hoá của màng sinh chất ăn sâu vào tế
bào, sau đó tách ra và phức tạp hoá dần hệ thống các răng lược để hình thành
một bào quan độc lập. Dẫn chứng cho giả thuyết này là ở nhiều vi khuẩn có cấu
trúc ezoxom (là các nếp gấp của màng sinh chất ăn sâu vào tế bào) có chứa
enzyme và nhân tố của sự hô hấp hiếu khí. Đây được xem là hình ảnh ty thể
nguyên thuỷ.
Ngày nay, người ta công nhận giả thuyết
"cộng sinh" về nguồn gốc chủng loại của ty thể. Sự xuất hiện của ty
thể trong tế bào eucaryota là kết quả cộng sinh của vi khuẩn hiếu khí với tế
bào. Dẫn chứng thuyết phục nhất là trong ty thể có chứa ADN giống với ADN của
vi khuẩn, ribosome của ty thể về kích thước giống với ribosome vi khuẩn. Đặc biệt
cơ chế và hoạt động tổng hợp protein trong ty thể có nhiều đặc điểm giống với
vi khuẩn (acid amin khởi động; là N.
focmylmethionin, sự tổng hợp bị ức chế
bởi
cholomphenicol v.v…).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Như Hiền, Trịnh Xuân Hậu
(2000), Tế bào học, Nxb Đại học quốc gia
Hà Nội.
2. Phạm Thành Hổ (2002), Sinh học đại
cương - Tế bào học, Di truyền học, Học
thuyết tiến hoá, Nxb Đại học quốc gia
Tp. Hồ Chí Minh.
DOWNLOAD:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét